CN PHAN MINH TỰ -
GGT là một enzym hầu hết gắn ở màng tế bào, có tác dụng tạo ra các isopeptid của glutamat với các amino acid tự do khác, giải phóng dipeptid cysteinyl-glycin từ glutathion (GSH). Cả 2 loại peptid này đi vào bào tương, ở đó cysteinyl-glycin được thủy phân thành các amino acid tự do là cystein và glycin do dipeptidase xúc tác. Peptid của y-glutamyl với amino acid khác được bẻ gẫy bởi enzym đặc hiệu là cyclotransferase. Enzym này giải phóng amino acid khác và biến đổi gốc glutamat thành 5-oxoprolin (hay còn gọi là acid pyrrolidon carboxylic). Dưới tác dụng của 5-oxoprolinase và ATP, 5-oxoprolin tạo thành glutamat và glutamat tái tổng hợp lại glutathion theo chu trình y-glutamyl.
Sơ đồ 1. Chu trình gamma glutamyl
Xét nghiệm gamma-glutamyl transferase (GGT) là gì?
Xét nghiệm gamma-glutamyl transferase (GGT) đo lượng GGT trong máu. GGT là một loại enzym được tìm thấy khắp cơ thể, nhưng nó chủ yếu được tìm thấy ở gan. Khi gan bị tổn thương, GGT có thể bị rò rỉ vào máu. Mức độ cao của GGT trong máu có thể là dấu hiệu của hoặc tổn thương đường . Các ống dẫn mật là các ống dẫn mật vào và ra khỏi gan. Mật là một chất lỏng do gan tạo ra. Nó rất quan trọng cho quá trình tiêu hóa.
Xét nghiệm GGT không thể chẩn đoán nguyên nhân cụ thể của bệnh gan. Vì vậy, nó thường được thực hiện cùng với hoặc sau các xét nghiệm chức năng gan khác, thường là xét nghiệm phosphatase kiềm (ALP). ALP là một loại men gan khác. Nó thường được sử dụng để giúp chẩn đoán các rối loạn về xương cũng như bệnh gan.
Tại sao tôi cần xét nghiệm GGT?
Bạn có thể cần xét nghiệm GGT nếu bạn có các triệu chứng của bệnh gan. Các triệu chứng bao gồm:
- Mệt mỏi
- Yếu đuối
- Vàng da , một tình trạng khiến da và mắt của bạn chuyển sang màu vàng
- Ăn mất ngon
- Đau hoặc sưng bụng
- Buồn nôn và ói mửa
Bạn cũng có thể cần xét nghiệm này nếu bạn có kết quả bất thường trong xét nghiệm ALP và / hoặc các xét nghiệm chức năng gan khác.
Những kết quả trên có ý nghĩa là gì?
Nếu kết quả của bạn cho thấy mức GGT cao hơn mức bình thường, đó có thể là dấu hiệu của tổn thương gan. Thiệt hại có thể do một trong các điều kiện sau:
- Viêm gan
- Xơ gan
- Rối loạn sử dụng rượu
- Viêm tụy
- Bệnh tiểu đường
- Suy tim sung huyết
- Tác dụng phụ của một loại thuốc . Một số loại thuốc có thể gây tổn thương gan ở một số người.
Kết quả không thể cho biết bạn đang mắc phải tình trạng nào, nhưng nó có thể giúp cho biết mức độ tổn thương gan của bạn. Thông thường, chỉ số GGT càng cao thì mức độ tổn thương của gan càng lớn.
Nếu kết quả của bạn cho thấy bạn có mức GGT thấp hoặc bình thường, điều đó có nghĩa là bạn có thể không bị bệnh gan.
Kết quả của bạn cũng có thể được so sánh với kết quả của xét nghiệm ALP. Xét nghiệm ALP giúp chẩn đoán các rối loạn về xương. Kết quả của bạn cùng nhau có thể hiển thị một trong những điều sau:
- Mức ALP cao và mức GGT cao có nghĩa là các triệu chứng của bạn có thể là do rối loạn gan chứ không phải rối loạn xương.
- Mức ALP cao và GGT thấp hoặc bình thường có nghĩa là bạn có nhiều khả năng bị rối loạn xương.
Hình ảnh Gan khỏe mạnh và Gan tổn thương
Yếu tố hạn chế - ảnh hưởng đến xét nghiệm GGT
Ngay cả một lượng nhỏ rượu trong vòng 24 giờ sau khi xét nghiệm GGT cũng có thể làm tăng GGT tạm thời. Tuy nhiên, sự biến đổi di truyền giữa các cá nhân có thể gây ra sự khác biệt trong phản ứng này của GGT đối với việc sử dụng rượu. Hút thuốc cũng có thể làm tăng GGT. Mức GGT tăng cao có thể là dấu hiệu của bệnh tim mạch và / hoặc tăng huyết áp. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người có mức GGT tăng có nguy cơ tử vong do bệnh tim cao, nhưng lý do của mối liên quan này vẫn chưa được biết đến. Mức độ GGT thấp được quan sát thấy trong một số bệnh di truyền, nơi dòng chảy của mật từ gan bị gián đoạn hoặc bị ức chế. Các loại thuốc có thể gây tăng GGT bao gồm phenytoin, carbamazepine và barbiturat như phenobarbital. Sử dụng nhiều loại thuốc theo toa và không theo toa khác, bao gồm thuốc chống viêm không steroid (NSAID), thuốc hạ lipid máu, thuốc kháng sinh, thuốc chẹn thụ thể histamine (được sử dụng để điều trị sản xuất dư thừa axit trong dạ dày), thuốc chống nấm, thuốc chống trầm cảm, thuốc tránh thai và hormone chẳng hạn như testosterone, có thể làm tăng mức GGT. Một số loại thuốc chống đông máu (ví dụ: heparin) và thuốc ức chế miễn dịch (ví dụ, methotrexate) cũng làm tăng mức GGT trong huyết thanh.
Tài liệu tham khảo
- Tài liệu hướng dẫn sử dụng hóa chất của hãng Roche.
- 03/06/2021 18:49 - Những vấn đề sử dụng thuốc trên người cao tuổi
- 03/06/2021 18:37 - Điều trị không dùng thuốc ở bệnh nhân đái tháo đườ…
- 27/05/2021 19:11 - Những sự cố thường gặp khi vận hành hệ thống R.O t…
- 20/05/2021 18:42 - Quan điểm về bệnh nội mô liên quan đến COVID-19
- 20/05/2021 18:23 - Về việc thay đổi kỳ kê khai tính thuế và thời gian…
- 08/05/2021 15:02 - Cơ chế hoạt động của Atropine trong việc kiểm soát…
- 06/05/2021 20:30 - Mức kháng nguyên HBcrAg trong viêm gan B liên quan…
- 06/05/2021 20:23 - Kháng sinh dự phòng
- 04/05/2021 20:49 - Phục hồi chức năng gãy các xương bàn tay, ngón tay
- 03/05/2021 08:32 - Hội chứng viêm phục hồi miễn dịch - Immune Reconst…