BS. Bùi Thị Thuỷ Tiên -
1. Giới thiệu:
Hầu hết các bệnh nhân lớn tuổi bị xơ gan và một số bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B mãn tính (HBV) có nguy cơ cao mắc ung thư biểu mô tế bào gan (HCC), vì vậy họ nên đăng ký chương trình sàng lọc và theo dõi. Sàng lọc những bệnh nhân có nguy cơ bằng chẩn đoán hình ảnh giúp phát hiện ung thư biểu mô tế bào gan ở giai đoạn sớm.
Chủ đề này sẽ giới thiệu các phương pháp sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan ở những bệnh nhân có nguy cơ cao cũng như các xét nghiệm theo dõi những tổn thương được tìm thấy trong quá trình sàng lọc.
2. Lợi ích của việc sàng lọc HCC
Mục tiêu của sàng lọc HCC là giảm tỷ lệ tử vong và cải thiện khả năng sống còn. Khuyến cáo sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan ở những bệnh nhân có nguy cơ cao dựa trên một thử nghiệm cho thấy tỷ lệ tử vong giảm 37% ở những bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B mãn tính (HBV), có hoặc không có xơ gan. Trong nghiên cứu này, với 19.200 bệnh nhân Trung Quốc bị HBV được theo dõi 5 năm, tỷ lệ tử vong do HCC thấp hơn ở những bệnh nhân được theo dõi (siêu âm và xét nghiệm alpha-fetoprotein sáu tháng một lần) so với những bệnh nhân không được theo dõi.
Một thử nghiệm ngẫu nhiên xác thực nghiên cứu này ở bệnh nhân xơ gan khó có thể xảy ra, vì sàng lọc là một phần của quá trình chăm sóc cho những bệnh nhân này. Tuy nhiên, các nghiên cứu quan sát cho thấy việc sàng lọc có liên quan đến việc phát hiện khối u ở giai đoạn sớm cũng như cải thiện khả năng sống sót. Trong một phân tích tổng hợp 38 nghiên cứu bao gồm hơn 10.000 bệnh nhân xơ gan, những bệnh nhân được sàng lọc HCC có tỷ lệ sống sót sau 3 năm cao hơn so với những bệnh nhân không được sàng lọc (51% so với 28%; tỷ lệ chênh lệch [OR] 1,9, 95% CI 1,7- 2.2). Ngoài ra, theo dõi sàng lọc có liên quan đến sự gia tăng phát hiện ung thư biểu mô tế bào gan giai đoạn sớm (OR 2,1, 95% CI 1,8-2,4) và tỷ lệ điều trị khỏi bệnh (OR 2,2, 95% CI 2,0-2,5) so với không sàng lọc
3. Nhóm nguy cơ cao
Các nhóm nguy cơ cao:
●Bệnh nhân xơ gan, Child-Pugh A và B
●Bệnh nhân xơ gan, Child-Pugh C, đang chờ ghép gan
●Bệnh nhân không xơ gan, nhiễm vi rút viêm gan B (HBV) có bất kỳ các đặc điểm sau đây:
- Đang có tình trạng viêm gan (tăng alanine aminotransferase [ALT] và / hoặc tải lượng vi rút cao)
- Tiền sử gia đình có HCC
- Người châu Phi và người Mỹ gốc Phi
- Nam giới Châu Á trên 40 tuổi
- Nữ giới Châu Á trên 50 tuổi
Ngoài ra, một số hiệp hội khuyến cáo sàng lọc những bệnh nhân nhiễm virus viêm gan C mãn tính và xơ hóa gan (giai đoạn F3).
Các khuyến cáo của chúng tôi phù hợp với các hướng dẫn do Hiệp hội Nghiên cứu Bệnh gan Hoa Kỳ (AASLD) và Hiệp hội Châu Âu về Nghiên cứu Gan và Tổ chức Nghiên cứu và Điều trị Ung thư Châu Âu (EASL-EORTC).
Bệnh nhân gan nhiễm mỡ không do rượu thì không sàng lọc cho đến khi tiến triển thành xơ gan.
Bệnh nhân xơ gan - Chúng tôi khuyến cáo sàng lọc HCC ở tất cả bệnh nhân xơ gan (do bất kỳ nguyên nhân nào) có khả năng điều trị, bao gồm các nhóm sau :
●Bệnh nhân Child-Pugh A hoặc B
●Bệnh nhân Child-Pugh C, đang chờ ghép gan
Tỷ lệ mắc HCC hàng năm trong nhóm này vượt quá 1,5%, trên ngưỡng mà việc tầm soát HCC được cho là có hiệu quả về mặt chi phí trong các phân nhóm đã xác định. Việc tầm soát không được khuyến cáo ở bệnh nhân Child-Pugh C do thời gian sống còn giới hạn và chức năng gan kém để chịu được việc điều trị ung thư
Bệnh nhân viêm gan B không bị xơ gan - Chúng tôi đồng ý với hầu hết các hướng dẫn đề nghị tầm soát ở bệnh nhân HBV mạn tính không xơ gan có bất kỳ điểm nào sau đây:
● Đang có tình trạng viêm gan(ví dụ, ALT tăng) và / hoặc tải lượng vi rút cao (tức là> 100.000 copies / mL [20.000 UI / mL])
●Tiền sử gia đình của HCC
●Nam giới Châu Á trên 40 tuổi
●Nữ giới Châu Á trên 50 tuổi
●Người châu Phi và người Mỹ gốc Phi
Tỷ lệ mắc HCC hàng năm vượt quá 0,2 phần trăm ở nhóm này, trên ngưỡng mà việc theo dõi HCC có hiệu quả về chi phí trong các phân nhóm đã xác định.
Bệnh nhân gốc châu Á - Chúng tôi đề nghị tầm soát HCC đối với bệnh nhân người châu Á nhiễm HBV và không bị xơ gan ở 40 tuổi đối với nam và 50 tuổi đối với nữ. Tỷ lệ ung thư biểu mô tế bào gan ở người châu Á nhiễm HBV cao hơn so với người da trắng (0,4 đến 0,6 phần trăm mỗi năm so với dưới 0,2 phần trăm mỗi năm). Tỷ lệ mắc bệnh ở nam giới nhiễm HBV ở Đông Nam Á bắt đầu vượt quá 0,2% vào khoảng tuổi 40, đây là cơ sở để khuyến cáo việc bắt đầu tầm soát nam giới châu Á từ 40 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh ở phụ nữ châu Á thấp hơn, chưa được xác thực rõ ràng.
Bệnh nhân gốc Phi - Chúng tôi khuyên nên bắt đầu tầm soát đối với người lớn tuổi gốc Phi tại thời điểm chẩn đoán HBV. Bệnh nhân HBV là người gốc Phi có xu hướng tiến triển thành HCC ở độ tuổi trẻ hơn so với những người mang bệnh khác.
Bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc ung thư biểu mô tế bào gan - Chúng tôi đề nghị sàng lọc HCC ở những bệnh nhân nhiễm HBV, không bị xơ gan nếu có tiền sử gia đình mắc ung thư biểu mô tế bào gan. HCC phổ biến ở những người nhiễm HBV có tiền sử gia đình mắc HCC. Trong một nghiên cứu trên 5238 người nhiễm HBV (553 có HCC và 4685 không có HCC), nguy cơ mắc HCC cao hơn đáng kể ở những người có tiền sử gia đình mắc HCC ( [ARR] 2,4). Nếu gia đình có từ hai thành viên bị trở lên, nguy cơ còn cao hơn (ARR 5,6). Ở độ tuổi 70, nguy cơ HCC cao hơn đáng kể ở những người có tiền sử gia đình so với người không có (23,6 % so với 8,9%). Tuy nhiên, không có dữ liệu về độ tuổi tối ưu để bắt đầu sàng lọc ở những bệnh nhân này. Trong trường hợp này, chúng tôi đề nghị những bệnh nhân này nên bắt đầu theo dõi sau 18 tuổi tại thời điểm chẩn đoán HBV.
Bệnh nhân đang có tình trạng viêm gan - Chúng tôi đề nghị tầm soát HCC cho tất cả bệnh nhân có bằng chứng viêm gan đang hoạt động (tức là, ALT huyết thanh tăng và / hoặc nồng độ HBV DNA cao), ngay cả khi họ không đáp ứng bất kỳ tiêu chí nào được liệt kê ở trên. Không có định nghĩa rõ ràng về nguyên do làm cho tải lượng vi rút cao, mặc dù tải lượng vi rút> 100.000 copies / mL (20.000 UI/ mL) là một yếu tố nguy cơ cho sự tiến triển của bệnh và ung thư biểu mô tế bào gan ở bệnh nhân châu Á, và nó là một ngưỡng do Viện Y tế Quốc gia đề xuất để xác định nhiễm HBV đang hoạt động.
Do đó, chúng tôi đề nghị tầm soát HCC cho tất cả bệnh nhân có tải lượng vi rút> 100.000 copies / mL (20.000 UI / mL).
Ngược lại, tỷ lệ mắc ung thư biểu mô tế bào gan thấp đối với những bệnh nhân chưa điều trị mà không có tình trạng viêm gan đang hoạt động(mức ALT và HBV DNA dưới 2000 UI / mL). Do đó, không khuyến cáo tầm soát những bệnh nhân không bị xơ gan và không có yếu tố nguy cơ.
Bệnh nhân được điều trị thành công HBV - Chúng tôi tiếp tục thực hiện tầm soát đối với những bệnh nhân đã được điều trị HBV thành công và những người có kháng nguyên viêm gan B, mặc dù nguy cơ HCC dường như đã giảm ở những bệnh nhân này.
Nguy cơ HCC sau khi điều trị HBV đã được kiểm tra trong một phân tích tổng hợp của 17 nghiên cứu với 5031 bệnh nhân. Mười hai trong số các nghiên cứu đã xem xét điều trị bằng interferon. So với nhóm chứng, bệnh nhân được điều trị bằng interferon giảm 34% nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào gan (nguy cơ tương đối [RR] 0,66, 95% CI 0,48-0,89). Năm trong số các nghiên cứu đã xem xét những bệnh nhân được điều trị bằng chất tương tự nucleos(t)ide và thấy rằng nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan giảm 78% so với nhóm chứng (RR 0,22, 95%CI 0,10-0,50).
Chỉ số nguy cơ dựa trên sự kết hợp giữa lâm sàng của bệnh nhân và đặc điểm của bệnh được đề xuất để ưu tiên sàng lọc HCC bao gồm cả những bệnh nhân nhiễm HBV bị ức chế dược lý. Ví dụ, sàng lọc HCC cho những bệnh nhân có số lượng tiểu cầu, tuổi, giới tính, điểm viêm gan B ≥10 đã được khuyến cáo bởi nhiều hiệp hội.
Bệnh nhân viêm gan C và xơ gan tiến triển - Chúng tôi đề nghị sàng lọc bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan C mãn tính và xơ gan tiến triển (giai đoạn F3) trong trường hợp không bị xơ gan, mặc dù lợi ích chi phí của việc tầm soát ở những bệnh nhân này chưa được xác minh, và một số hướng dẫn, chẳng hạn như hướng dẫn của AASLD, không ủng hộ việc tầm soát ở những bệnh nhân này. Ở những bệnh nhân đã được điều trị vi rút viêm gan C mãn tính và đã đạt đáp ứng với vi rút bền vững, nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan vẫn tồn tại và cần được tiếp tục theo dõi.
Porphyria - Theo dõi HCC được bảo đảm đối với một số bệnh nhân bị rối loạn chuyển hóa porphyrin như rối loạn chuyển hóa porphyrin cấp tính từng cơn, rối loạn chuyển hoá coproporphyria di truyền vì họ có nguy cơ mắc HCC, không phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh gan. Tần suất và phương thức sàng lọc có thể khác nhau.
4. Các phương pháp sàng lọc
Siêu âm - Để sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan ở hầu hết các bệnh nhân có nguy cơ, chúng tôi đề nghị siêu âm ổ bụng mỗi sáu tháng,theo như những hướng dẫn khác. Siêu âm bụng được thực hiện để sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan thường chỉ tập trung vào gan kèm theo việc đánh giá thêm lách trong một số trường hợp. Tuy nhiên, chụp cắt lớp vi tính có thuốc cản quang (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) được đưa vào sàng lọc ở nhiều cơ sở và áp dụng cho những bệnh nhân đủ điều kiện. Những kiểm tra hình ảnh này cho thấy độ nhạy cao hơn, nhưng không có thử nghiệm nào được thực hiện để kiểm tra ích lợi của chúng đối với khả năng sống còn.
Nói chung, chúng tôi không đề xuất chụp CT hoặc MRI bụng làm phương thức chính để sàng lọc thường quy; thay vào đó, chúng tôi đề xuất sử dụng các phương thức này để xác định những tổn thương ≥1 cm trong quá trình sàng lọc.
Trong số các phương pháp chẩn đoán hình ảnh, siêu âm là ít nhạy nhất để phát hiện HCC. Tuy nhiên, không giống như các phương pháp khác, siêu âm sàng lọc nửa năm (hai lần một năm) đã được chứng minh là cải thiện khả năng sống sót của bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B mãn tính.
Độ nhạy của siêu âm để phát hiện HCC khá biến đổi và tùy thuộc vào thể trạng bệnh nhân, tình trạng xơ gan, kỹ thuật hình ảnh và tiêu chuẩn tham chiếu được sử dụng để chẩn đoán HCC. Độ nhạy giảm ở bệnh nhân xơ gan vì sự không đồng nhất của nhu mô làm mờ các tổn thương nhỏ. Độ nhạy của siêu âm để phát hiện HCC ở bất kỳ giai đoạn nào là 78 phần trăm (95% CI 67-86 phần trăm) và đối với HCC giai đoạn sớm là 45 phần trăm (95% CI, 30-62 phần trăm) . Trong một nghiên cứu, độ nhạy giảm theo kích thước tổn thương và lần lượt là 85, 62 và 21% đối với các tổn thương> 4 cm, 2 đến 4 cm và <2 cm. Độ đặc hiệu được báo cáo là cao đều ở mức> 90 phần trăm.
Khoảng thời gian sáu tháng - Khuyến nghị sàng lọc trong sáu tháng ban đầu dựa trên dự kiến tốc độ phát triển khối u (thời gian tăng gấp đôi đối với HCC là 117 ngày [ từ 29 đến 398 ngày]). Vì khoảng thời gian theo dõi có vai trò thể hiện tốc độ phát triển khối u chứ không chỉ mức độ nguy cơ tiến triển ung thư gan, nên khoảng thời gian này không được rút ngắn đối với những bệnh nhân có nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào gan
Các nghiên cứu sau đây minh chứng nên sàng lọc trong khoảng thời gian sáu tháng
●Trong một nghiên cứu hồi cứu trên 649 bệnh nhân xơ gan và ung thư biểu mô tế bào gan phát hiện nhờ sàng lọc, tỷ lệ sống sót trung bình cao hơn ở những bệnh nhân được siêu âm sáu tháng so với những bệnh nhân được theo dõi hàng năm (45 so với 30 tháng).
●Trong một phân tích tổng hợp của 19 nghiên cứu, độ nhạy của siêu âm được áp dụng trong bối cảnh sàng lọc để phát hiện khối u trước khi có triệu chứng lâm sàng, cao hơn ở những bệnh nhân được chỉ định sàng lọc sáu tháng so với những bệnh nhân được sàng lọc hàng năm (70 so với 50 phần trăm).
●Trong một thử nghiệm trên 1278 bệnh nhân xơ gan, những bệnh nhân được chỉ định siêu âm sàng lọc 3 tháng có tỷ lệ phát hiện ung thư biểu mô tế bào gan tương tự so với nhóm 6 tháng.
Các phương pháp thay thế - Một phương pháp thay thế để sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan là siêu âm và alpha-fetoprotein (AFP) trong sáu tháng. Cách tiếp cận này không được so sánh trực tiếp với siêu âm đơn thuần. Tuy nhiên, độ nhạy của siêu âm thấp hơn so với siêu âm cộng với AFP để phát hiện HCC ở bất kỳ giai đoạn nào (78 so với 97%, nguy cơ tương đối [RR] 0,88, KTC 95% 0,83-0,93) và để phát hiện HCC giai đoạn sớm (45 so với 63% , RR 0,81, 95% CI 0,71-0,93).
Mặc dù CT hoặc MRI bụng là những công cụ có thể được sử dụng để sàng lọc, Hiệp hội Nghiên cứu Bệnh gan Hoa Kỳ thì không khuyến cáo sử dụng chúng thường xuyên. Tuy nhiên, một số bác sĩ sử dụng CT hoặc MRI kết hợp hoặc thay vì siêu âm để theo dõi, đặc biệt là đối với những bệnh nhân mà hình ảnh siêu âm của gan bị hạn chế bởi thể trạng béo phì, gan nhiễm mỡ, hoặc sự không đồng nhất nhu mô do xơ gan tiến triển. Cả CT và MRI đều nhạy hơn siêu âm khi phát hiện HCC <2 cm và do đó có nhiều khả năng xác định các ứng cử viên trong điều trị ghép gan hơn. Xét nghiệm AFP đơn độc không thể là một giải pháp thay thế để sàng lọc. Việc sử dụng siêu âm có tăng cường chất tương phản để sàng lọc chỉ mang tính chất nghiên cứu và không được khuyến cáo cho thực hành lâm sàng nói chung.
●Chụp cắt lớp vi tính - CT bụng có cản quang không được khuyến cáo như là một phương pháp chẩn đoán hình ảnh chính trong sàng lọc , ngoại trừ những bệnh nhân có những hạn chế trong siêu âm như đã mô tả ở trên. Khi siêu âm phát hiện một nốt, CT sẽ được sử dụng để xác định đó là một ung thư biểu mô tế bào gan. CT nhạy hơn siêu âm và có độ đặc hiệu> 90%. CT bao gồm việc sử dụng chất cản quang iot, và việc quét lặp đi lặp lại dẫn đến phơi nhiễm với bức xạ.
●Chụp cộng hưởng từ - MRI bụng có thuốc tương phản không được khuyến cáo như là một phương pháp chẩn đoán hình ảnh chính để sàng lọc, ngoại trừ những bệnh nhân có những hạn chế khi siêu âm như đã mô tả ở trên. Khi siêu âm phát hiện một nốt, chụp MRI có thuốc tương phản sẽ được sử dụng để xác định khả năng đó là ung thư biểu mô tế bào gan. MRI nhạy hơn siêu âm và có độ đặc hiệu> 90 phần trăm. MRI yêu cầu bệnh nhân nằm yên trong một từ trường tối đa 30 phút và nín thở theo hướng dẫn. Việc sử dụng MRI trong sàng lọc yêu cầu sử dụng nhiều lần thuốc tương phản gadolinium. MRI không thuốc tương phản đã hứa hẹn là một xét nghiệm sàng lọc HCC trong các nghiên cứu sơ bộ ở một số nhóm khác, nhưng không phải ở nhóm bệnh nhân này. Ví dụ, một nghiên cứu gợi ý rằng sàng lọc bằng MRI có thuốc tương phản có lợi ích về chi phí đối với bệnh nhân lớn tuổi bị xơ gan và có nguy cơ HCC vượt quá 3% so với siêu âm đơn thuần. Các nghiên cứu bổ sung là cần thiết để xác nhận MRI như một công cụ sàng lọc và xác định hình ảnh tối ưu nhất.
●Alpha-fetoprotein - Chúng tôi không khuyến cáo việc chỉ sử dụng AFP khi sàng lọc. Do độ nhạy và độ đặc hiệu kém, không nên sử dụng mỗi xét nghiệm AFP trừ khi không có chẩn đoán hình ảnh. Vì việc sử dụng kết hợp AFP và siêu âm bụng làm tăng tỷ lệ phát hiện bệnh so với chỉ siêu âm, AFP có thể được thêm vào cùng với siêu âm để sàng lọc, mặc dù điều này làm tăng tỷ lệ dương tính giả.
●Siêu âm có tương phản - Siêu âm bụng có tương phản trong giai đoạn muộn cho phép phát hiện các nốt HCC. Tuy nhiên, siêu âm tăng cường chất tương phản không được khuyến cáo trong sàng lọc, mặc dù việc sử dụng nó trong bối cảnh này chưa được xác thực. Siêu âm tăng cường chất tương phản cho phép mô tả đặc điểm của một hoặc một số ít các khối u đã được xác định.
Các xét nghiệm khác đã được đề xuất trong sàng lọc, chẳng hạn như AFP-L3, DCP, và các protein huyết thanh hoặc phân tử RNA khác. Tuy nhiên, không có cái nào trong số này được nghiên cứu đầy đủ, và chúng không được khuyến nghị.
5. Các bệnh nhân có tổn thương được phát hiện bằng siêu âm
Đối với những người có nguy cơ mắc ung thư biểu mô tế bào gan, có tổn thương được phát hiện qua siêu âm sàng lọc, thì kế hoạch điều trị tiếp theo phụ thuộc vào kích thước của tổn thương. Cách tiếp cận của chúng tôi được mô tả như sau:
Tổn thương có kích thước <1 cm - Các tổn thương có đường kính <1 cm thì quá nhỏ để có thể chẩn đoán xác định bằng chẩn đoán hình ảnh hoặc sinh thiết. Chúng có khả năng lành tính. Chúng tôi theo dõi chúng trong khoảng thời gian ngắn (ví dụ: từ ba đến sáu tháng một lần) trong hai năm. Nếu tổn thương biến mất hoặc vẫn còn nhỏ hơn 1 cm, bệnh nhân có thể trở lại theo dõi định kỳ sau sáu tháng. Nếu tổn thương phát triển vượt quá 1 cm, hoặc nếu có một tổn thương mới ≥1 cm, hoặc nếu mức alpha-fetoprotein tăng lên, chúng tôi sẽ thu được hình ảnh tổn thương gan khi chụp cắt lớp vi tính(CT) hoặc cộng hưởng từ (MRI). Siêu âm tăng cường chất tương phản, nếu có thể, có thể được sử dụng thay cho CT hoặc MRI, với lưu ý rằng nếu tổn thương được chứng minh là ác tính, thì sẽ cần chụp CT hoặc MRI có tiêm thuốc cản quang để phân giai đoạn khối u.
Tổn thương có kích thước ≥1 cm - Tổn thương có đường kính ≥1 cm nên được đánh giá thêm bằng các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác kết hợp thuốc cản quang tĩnh mạch.
Chẩn đoán HCC có thể bằng hình ảnh hoặc bằng sinh thiết. Chẩn đoán hình ảnh cũng có thể phát hiện một số tổn thương (ví dụ: u nang, u máu) là lành tính hoặc có khả năng lành tính dựa trên các đặc điểm hình ảnh và / hoặc nếu chúng không thay đổi trong thời gian dài (ví dụ> 24 tháng).
6. Cá nhân hóa việc sàng lọc ung thư dựa trên các yếu tố nguy cơ
Nếu nguy cơ tiến triển ung thư biểu mô tế bào gan có thể được dự đoán chính xác dựa trên các đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân, việc sàng lọc có thể được điều chỉnh cho phù hợp với nguy cơ của từng bệnh nhân. Một số yếu tố nguy cơ HCC đã được xác định và một số yếu tố đã được đưa vào thang điểm nguy cơ , mặc dù chưa có yếu tố nào được xác thực rộng rãi.
Một nghiên cứu đã đề xuất một biểu đồ dự đoán nguy cơ cá nhân ở những bệnh nhân nhiễm vi rút viêm gan B mãn tính. Các thành phần của thang điểm bao gồm giới tính, tuổi, nồng độ alanin aminotransferase, HBeAg và mức độ HBV DNA trong máu. Bệnh nhân có thể đạt từ 0 đến 17 điểm. 0 điểm tương ứng với nguy cơ HCC trong 10 năm là 0%, 8 điểm tương ứng với nguy cơ là 2% và 17 điểm tương ứng với nguy cơ 82%. Trở ngại chủ yếu là thang điểm được nghiên cứu ở châu Á và đã được xác thực ở châu Á, nơi có nhiều bệnh nhân bị nhiễm viêm gan B kiểu gen B và C. Mặc dù mối liên quan có lẽ cũng đúng với các kiểu gen khác, nhưng ngưỡng giới hạn vẫn chưa được xác định , vì vậy thang điểm này có thể chỉ hữu ích đối với dân Châu Á.
Thang điểm về số lượng tiểu cầu, tuổi, giới tính, viêm gan B (PAGE B) để dự đoán nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan bao gồm tuổi, giới tính và số lượng tiểu cầu của bệnh nhân, và nó đã được xác thực ở bệnh nhân châu Âu da trắng và bệnh nhân châu Á mắc HBV đã được điều trị bằng thuốc kháng vi-rút , có HBeAg âm tính . Tuy nhiên, thang điểm PAGE B chưa được xác nhận ở bệnh nhân gốc Phi, HbeAg dương, bệnh nhân da trắng không được điều trị HBV. Điểm CAGE-B và SAGE-B bao gồm tuổi và mức độ xơ hóa gan (CAGE-B) và / hoặc độ cứng gan (SAGE-B) đã được đề xuất để dự đoán nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan ở bệnh nhân da trắng và bệnh nhân châu Á bị nhiễm viêm gan B mãn tính điều trị liệu pháp kháng vi rút dài hạn
TÓM TẮT VÀ KIẾN NGHỊ
●Cách tiếp cận của chúng tôi trong sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan (HCC) nói chung phù hợp với hầu hết các hướng dẫn, khuyến cáo sàng lọc đối với một nhóm nhỏ bệnh nhân lớn tuổi nhiễm vi rút viêm gan B mãn tính (HBV) và tất cả bệnh nhân lớn tuổi xơ gan đang điều trị ( Mức độ 2C )
- Bệnh nhân Child-Pugh A hoặc B
- Bệnh nhân Child-Pugh C, đang chờ cấy ghép
●Chúng tôi đề nghị rằng một số bệnh nhân nhiễm HBV mãn tính nên được sàng lọc ( Mức độ 2C ). Bệnh nhân bị HBV mãn tính có nguy cơ cao sàng lọc HCC bao gồm:
- Bệnh nhân có tiền sử gia đình bị HCC
- Nam giới Châu Á trên 40 tuổi
- Nữ giới Châu Á trên 50 tuổi
- Người châu Phi và người Mỹ gốc Phi
●Đối với những bệnh nhân có bằng chứng về viêm gan B đang hoạt động (ví dụ, alanin aminotransferase tăng cao) và / hoặc tải lượng vi rút cao ( > 100.000 copies/ mL [20.000 IU/ mL]), chúng tôi đề nghị thực hiện sàng lọc ( Độ 2C ).
●Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao cần sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan, chúng tôi đề nghị siêu âm ổ bụng. Siêu âm ổ bụng sàng lọc ung thư biểu mô tế bào gan thường chỉ tập trung vào gan kèm theo việc đánh giá thêm lách trong một số trường hợp.
●Đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao cần sàng lọc HCC, siêu âm ổ bụng được thực hiện sáu tháng một lần.
●Ở những bệnh nhân mà việc siêu âm gan là chưa tối ưu về mặt kỹ thuật (ví dụ: cơ địa béo phì, gan nhiễm mỡ, xơ gan tiến triển), các phương pháp khác như chụp cắt lớp vi tính hoặc chụp cộng hưởng từ với thuốc cản quang có thể phù hợp.
●Việc bổ sung alpha-fetoprotein (AFP) cùng với siêu âm để sàng lọc là tùy chọn. Việc sử dụng kết hợp AFP và siêu âm làm tăng tỷ lệ phát hiện nhưng cũng làm tăng tỷ lệ dương tính giả.
●Đối với những bệnh nhân có tổn thương được phát hiện bằng siêu âm, xét nghiệm theo dõi sau đó dựa trên kích thước của tổn thương
- Tổn thương <1 cm thì quá nhỏ để có thể chẩn đoán xác định bằng hình ảnh hoặc sinh thiết. Chúng có khả năng lành tính. Chúng tôi theo dõi chúng trong thời gian ngắn (ví dụ: từ ba đến sáu tháng một lần) cho tới hai năm. Nếu tổn thương biến mất hoặc vẫn còn nhỏ hơn 1 cm, bệnh nhân có thể trở lại theo dõi định kỳ sau khoảng thời gian sáu tháng.
- Các tổn thương có đường kính ≥1 cm nên được đánh giá thêm bằng phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác kết hợp thuốc cản quang tĩnh mạch
Nguồn:
- 02/06/2022 18:12 - Vài lợi ích của steroids trong ung thư
- 31/05/2022 18:08 - Những thách thức về quản lý huyết động trong sốc n…
- 24/05/2022 20:56 - Euthyroid Sick Syndrome
- 24/05/2022 20:47 - Tiếp cận tình huống rối loạn chảy máu dành cho bác…
- 22/05/2022 14:49 - Tầm quan trọng của xét nghiệm D-dimer trong chẩn đ…
- 17/05/2022 20:07 - Ứng dụng siêu âm đàn hồi
- 16/05/2022 19:19 - Nốt phổi đơn độc: Hướng quản lý / theo dõi
- 11/05/2022 21:46 - Chăm sóc bà mẹ trước sinh: tiền sản giật
- 08/05/2022 21:35 - Hồi sức mất máu lượng lớn
- 03/05/2022 20:47 - So sánh hiệu quả của Allopurinol và Febuxastat tr…