Bs Trương Thị Kiều Loan - Khoa Vi Sinh
Sốt lợn châu Phi (African-swine-fever: ASF) là một bệnh do virus gây bệnh xuất huyết rất dễ lây lan ở lợn nhà và lợn hoang dã, chịu trách nhiệm cho những thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế và sản xuất.
Nó được gây ra bởi một loại virus DNA lớn thuộc họ Asfarviridae, cũng lây nhiễm ve của chi Ornithodoros.
Mặc dù các dấu hiệu của ASF và sốt lợn cổ điển (Classical Swine Fever CSF) có thể giống nhau, virus ASF không liên quan đến virus CSF.
ASF là một loại bệnh được liệt kê trong Bộ luật Sức khỏe Động vật trên cạn của Tổ chức Thú y Thế giới (OIE Terrestrial Animal Health Code, and OIE Manual of Diagnostic Tests and Vaccines for Terrestrial Animals OIE ) và phải được báo cáo cho OIE.
Bản đồ dịch tể tình hình nhiễm sốt lợn châu Phi 6 tháng đầu năm 2019
Đường truyền và lây lan
Dịch tễ học của ASF rất phức tạp và thay đổi tùy thuộc vào môi trường, các loại hệ thống chăn nuôi lợn, sự hiện diện hoặc vắng mặt của các vec tơ tuyền bệnh, hành vi của con người và sự hiện diện hoặc vắng mặt của lợn rừng.
- Do tiếp xúc trực tiếp với lợn nhà hoặc lợn rừng bị nhiễm bệnh;
- Do tiếp xúc gián tiếp, thông qua việc ăn phải vật liệu bị ô nhiễm (ví dụ chất thải thực phẩm, thức ăn hoặc rác thải);
- Do vectơ sinh học bị ô nhiễm (ve mềm của chi Ornithodoros ) nơi hiện diện....
Nguy cơ sức khỏe cộng đồng
ASF không phải là một nguy cơ đối với sức khỏe con người.
Dấu hiệu lâm sàng
Dấu hiệu lâm sàng và tỷ lệ tử vong có thể thay đổi tùy theo độc lực của virut và loài lợn:
Các dạng ASF cấp tính được đặc trưng bởi sốt cao, trầm cảm, chán ăn và chán ăn, xuất huyết trên da (đỏ da trên tai, bụng và chân), phá thai ở lợn nái mang thai, tím tái, nôn mửa, tiêu chảy và tử vong trong vòng 6-13 ngày (hoặc tối đa 20 ngày). Tỷ lệ tử vong có thể lên tới 100%.
Các dạng bán cấp và mạn tính được gây ra bởi các virut có độc lực trung bình hoặc thấp, tạo ra các dấu hiệu lâm sàng ít dữ dội hơn có thể biểu hiện trong thời gian dài hơn nhiều. Tỷ lệ tử vong thấp hơn, nhưng vẫn có thể dao động từ 30-70%. Các triệu chứng bệnh mãn tính bao gồm giảm cân, sốt không liên tục, các dấu hiệu hô hấp, loét da mãn tính và viêm khớp.
Các loại lợn khác nhau có thể có độ nhạy cảm khác nhau với nhiễm virus ASF. Những con thú hoang châu Phi có thể bị nhiễm bệnh mà không có dấu hiệu lâm sàng cho phép chúng hoạt động như những hồ chứa.
Chẩn đoán
ASF có thể bị nghi ngờ dựa trên các dấu hiệu lâm sàng nhưng phải xác nhận bằng các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm, đặc biệt để phân biệt với sốt lợn cổ điển (CSF). Hướng dẫn về các xét nghiệm chẩn đoán ASF có thể được tìm thấy trong Hướng dẫn kiểm tra chẩn đoán và vắc-xin cho động vật trên cạn .
Ngăn ngừa và kiểm soát
Hiện tại không có vắc-xin đặc hiệu cho ASF.
Phòng ngừa bệnh sốt lợn Châu Phi
Ở các quốc gia không có bệnh, phụ thuộc vào việc thực hiện các chính sách nhập khẩu và các biện pháp an toàn sinh học thích hợp, đảm bảo rằng cả lợn và lợn không bị nhiễm bệnh đều được đưa vào các khu vực không có ASF. Điều này bao gồm đảm bảo xử lý đúng cách thực phẩm thải từ máy bay, tàu thủy hoặc phương tiện đến từ các quốc gia bị ảnh hưởng và kiểm soát nhập khẩu trái phép lợn và các sản phẩm thịt lợn từ các quốc gia bị ảnh hưởng.
Trong các vụ dịch và ở các nước bị ảnh hưởng, việc kiểm soát ASF có thể khó khăn và phải thích nghi với tình hình dịch tễ học cụ thể.
Các biện pháp vệ sinh thông thường có thể được sử dụng bao gồm phát hiện sớm và giết hại động vật (với việc xử lý đúng cách vỏ xe và chất thải); làm sạch kỹ lưỡng và khử trùng; phân vùng hoặc ngăn chặn và giám sát việc vận chuyển; giám sát và điều tra dịch tễ chi tiết; biện pháp an toàn sinh học nghiêm ngặt trên các trang trại.
Theo quan sát ở châu Âu và một số khu vực châu Á, việc truyền ASF dường như phụ thuộc phần lớn vào mật độ dân số lợn rừng và sự tương tác của chúng với các hệ thống chăn nuôi lợn an toàn sinh học thấp. Kiến thức và quản lý tốt về quần thể lợn rừng và sự phối hợp tốt giữa các dịch vụ Thú y, các cơ quan lâm nghiệp và động vật hoang dã được yêu cầu để ngăn chặn và kiểm soát thành công ASF.
Tùy thuộc vào tình hình dịch tễ học, sự tham gia của vec tơ mềm cũng cần được xem xét trong chương trình kiểm soát.
Nguồn: Dịch từ
- 23/10/2019 18:44 - Các bệnh sốt do nhiễm rickettsia
- 23/10/2019 18:32 - Chế độ ăn kiêng FODMAP thấp cho IBS (Hội chứng ruộ…
- 23/10/2019 11:00 - Điều trị giang mai theo CDC 2015
- 19/10/2019 08:37 - Sơ lược chẩn đoán và điều trị U nhú niệu mạc, tiềm…
- 30/09/2019 23:50 - Kiểm soát nhiễm khuẩn đối với một số bệnh truyền n…
- 30/09/2019 23:00 - Đo thông khí phổi và làm test hồi phục phế quản
- 30/09/2019 22:10 - Việc sử dụng huyết tương giàu tiểu cầu trong quản …
- 30/09/2019 22:00 - Loãng xương
- 30/09/2019 21:21 - Một kỹ thuật ho ứng dụng trong lâm sàng hô hấp
- 30/09/2019 21:15 - Tổng quan bệnh viêm cột sống dính khớp (Ankylosing…