CN Trần Thị Thanh Lý -
Bạch hầu là một căn bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn sản sinh độc tố gây ra. Bệnh có thể lây từ người sang người khi người bị nhiễm bệnh ho hoặc hắt hơi. Một số người có thể không biểu hiện bệnh nhưng vẫn có thể truyền vi khuẩn cho người khác. Những người khác sẽ phát triển bệnh nhẹ, mặc dù bệnh nặng, biến chứng và tử vong cũng có thể xảy ra.
Bệnh bạch hầu có thể ảnh hưởng đến bất kỳ ai nhưng phổ biến nhất ở trẻ em chưa tiêm vắc-xin.
Độc tố bạch hầu gây tổn thương đường hô hấp và có thể lan truyền khắp cơ thể. Các triệu chứng phổ biến bao gồm sốt, đau họng và sưng tuyến cổ.
Tiêm vắc-xin là cách tốt nhất để ngăn ngừa bệnh bạch hầu hoặc lây lan cho người khác. Vắc-xin an toàn và giúp cơ thể bạn chống lại bệnh nhiễm trùng.
Trước khi vắc-xin bạch hầu được đưa vào sử dụng và tiêm chủng rộng rãi vào những năm 1930, các trường hợp mắc bệnh đã xảy ra trên toàn thế giới.
Gần đây, do tiêm chủng không đầy đủ nên các đợt bùng phát dịch bệnh xảy ra ngày càng thường xuyên mặc dù đã có vắc-xin an toàn và hiệu quả.
Bạch hầu là một căn bệnh do vi khuẩn gây ra, ảnh hưởng đến đường hô hấp trên và ít gặp hơn là da. Nó cũng sản sinh ra độc tố gây tổn thương tim và thần kinh.
Bạch hầu là bệnh có thể phòng ngừa bằng vắc-xin, nhưng cần tiêm nhiều liều và tiêm nhắc lại để tạo ra và duy trì khả năng miễn dịch.
Những người không được tiêm chủng hoặc tiêm chủng không đầy đủ đều có nguy cơ mắc bệnh.
Đối với những người chưa tiêm vắc-xin, nếu không được điều trị đúng cách, bệnh bạch hầu có thể gây tử vong ở khoảng 30% các trường hợp, trong đó trẻ nhỏ có nguy cơ tử vong cao hơn.
Các đợt bùng phát bệnh bạch hầu gần đây nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì tỷ lệ tiêm chủng cao trong cộng đồng trong suốt cuộc đời.
Vào năm 2023, ước tính 84% trẻ em trên toàn thế giới đã được tiêm 3 liều vắc-xin phòng bệnh bạch hầu theo khuyến cáo trong thời kỳ sơ sinh, khiến 16% không được tiêm hoặc tiêm không đầy đủ. Có sự khác biệt lớn về phạm vi tiêm chủng giữa các quốc gia và trong cùng một quốc gia.
Tác động của đại dịch COVID-19
Đại dịch COVID-19 đã tác động đến việc cung cấp các dịch vụ tiêm chủng thường quy và các hoạt động giám sát. Những trở ngại này khiến nhiều trẻ em dễ mắc các bệnh có thể phòng ngừa bằng vắc-xin như bệnh bạch hầu.
Không có khu vực nào của WHO hoàn toàn không có bệnh bạch hầu, và những khu vực có tỷ lệ tiêm chủng thấp bằng vắc-xin chứa độc tố bạch hầu sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn lưu hành, làm tăng khả năng bùng phát và khiến tất cả những người chưa tiêm vắc-xin hoặc tiêm vắc-xin chưa đầy đủ đều có nguy cơ mắc bệnh.
Các chương trình tiêm chủng và giám sát cần được tăng cường trong chăm sóc sức khỏe ban đầu và cần nỗ lực để tiêm 3 liều vắc-xin chứa độc tố bạch hầu cho tất cả trẻ em trong thời kỳ sơ sinh, thời thơ ấu và tuổi vị thành niên. Các quốc gia cũng nên triển khai các hệ thống giám sát mạnh mẽ để xác định và xác nhận các trường hợp và nhanh chóng thu hẹp khoảng cách miễn dịch.
Dấu hiệu và triệu chứng
Các triệu chứng của bệnh bạch hầu thường bắt đầu 2–5 ngày sau khi tiếp xúc với vi khuẩn. Các triệu chứng điển hình của bệnh nhiễm trùng bao gồm đau họng, sốt, sưng hạch cổ và suy nhược. Trong vòng 2–3 ngày kể từ khi nhiễm trùng, mô chết trong đường hô hấp tạo thành một lớp phủ dày, màu xám có thể bao phủ các mô ở mũi, amidan và cổ họng, khiến việc thở và nuốt trở nên khó khăn.
Hầu hết các ca bệnh nghiêm trọng và tử vong do bệnh bạch hầu xảy ra do độc tố bạch hầu và các tác động của nó. Các biến chứng có thể bao gồm viêm tim và dây thần kinh. Đối với những người không được tiêm vắc-xin và không được điều trị đầy đủ, bệnh bạch hầu có thể gây tử vong ở khoảng 30% các trường hợp, trong đó trẻ em dưới 5 tuổi có nguy cơ tử vong cao hơn.
Ai có nguy cơ?
Bất kỳ người nào không có miễn dịch (chưa được tiêm vắc-xin hoặc tiêm vắc-xin chưa đầy đủ) đều có thể bị nhiễm bệnh.
Bệnh bạch hầu đã tái phát bất cứ khi nào phạm vi tiêm chủng trở nên thấp. Cơ sở hạ tầng y tế và dịch vụ y tế bị hư hại ở các quốc gia đang trải qua hoặc đang phục hồi sau thiên tai hoặc xung đột làm gián đoạn việc tiêm chủng thường xuyên. Tình trạng quá tải ở các trại tị nạn làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.
Điều trị
Nguy cơ biến chứng hoặc tử vong giảm đáng kể nếu điều trị thích hợp được thực hiện sớm trong quá trình bệnh. Vì lý do này, nếu nghi ngờ mắc bệnh bạch hầu, cần tiến hành xét nghiệm để xác nhận bệnh ngay lập tức và bắt đầu điều trị càng sớm càng tốt.
Các trường hợp bệnh bạch hầu thường được điều trị bằng thuốc giải độc bạch hầu cũng như thuốc kháng sinh. Thuốc giải độc đặc hiệu bạch hầu trung hòa độc tố lưu thông trong máu. Hướng dẫn chi tiết về cách dùng thuốc giải độc có thể được tìm thấy trong hướng dẫn điều trị của WHO. Thuốc kháng sinh ngăn chặn sự nhân lên của vi khuẩn và do đó sản xuất độc tố, đẩy nhanh quá trình loại bỏ vi khuẩn và ngăn ngừa lây truyền cho người khác. Tuy nhiên, nhiều chủng bạch hầu hiện tại đã biểu hiện khả năng kháng một số loại thuốc kháng khuẩn thường dùng. Bất kỳ ai đã từng mắc bệnh bạch hầu cũng nên tiêm vắc-xin sau khi giai đoạn cấp tính của bệnh kết thúc.
Phòng ngừa
Những người đã tiếp xúc với các trường hợp mắc bệnh bạch hầu nên được điều trị dự phòng bằng kháng sinh để phòng ngừa bệnh. Tình trạng tiêm chủng của tất cả những người tiếp xúc cũng nên được kiểm tra. Nếu họ chưa được tiêm phòng đầy đủ, họ cũng nên được cung cấp vắc-xin.
Bệnh bạch hầu có thể được phòng ngừa bằng vắc-xin thường được tiêm kết hợp với uốn ván, ho gà và các bệnh khác. WHO khuyến cáo nên tiêm tổng cộng 6 liều vắc-xin có chứa bệnh bạch hầu bắt đầu từ 6 tuần tuổi cho đến tuổi vị thành niên để bảo vệ lâu dài.
Tiêm chủng toàn cộng đồng với phạm vi bao phủ cao như một phần của các dịch vụ tiêm chủng thường quy được đưa vào chăm sóc sức khỏe ban đầu là cách hiệu quả nhất để phòng ngừa bệnh bạch hầu. Tất cả trẻ em nên được tiêm vắc-xin phòng bệnh bạch hầu với một loạt mũi tiêm cơ bản đầy đủ và 3 mũi tăng cường bổ sung để bảo vệ lâu dài. Vắc-xin an toàn và hiệu quả.
Vắc-xin bạch hầu thường được tiêm kết hợp với vắc-xin phòng các bệnh như uốn ván, ho gà, viêm gan B, bại liệt bất hoạt.
Việc kết hợp vắc-xin làm tăng chi phí một chút nhưng cho phép chia sẻ chi phí cung cấp và quản lý, và quan trọng hơn là tăng thêm lợi ích bảo vệ chống lại các bệnh tật khác ở trẻ em có thể gây ra bệnh uốn ván, ho gà, viêm màng não và bại liệt.
Năm 2023, 84% trẻ em đã được tiêm đủ 3 liều vắc-xin bạch hầu cơ bản. Tuy nhiên, có sự khác biệt đáng kể về mức độ bao phủ giữa các quốc gia và trong cùng một quốc gia.
Việc tiêm chủng không đầy đủ ở nhiều nhóm trẻ em liên tiếp có thể dẫn đến các trường hợp và đợt bùng phát bệnh bạch hầu.
Hành động của Tổ chức y tế thế giới WHO
Chương trình tiêm chủng thiết yếu bắt đầu vào năm 1974. Vắc-xin phòng bệnh bạch hầu kết hợp đã được đưa vào như một phần của chương trình này kể từ khi thành lập và đã mắc bệnh trong giai đoạn 1980–2000. WHO tiếp tục hợp tác với các quốc gia thành viên để thúc đẩy tiêm chủng nhằm duy trì phạm vi bao phủ của vắc-xin và ngăn ngừa bệnh tật trong cộng đồng.
Trong những năm gần đây, đã có những đợt bùng phát bệnh bạch hầu do tỷ lệ tiêm vắc-xin không đầy đủ. Để kiểm soát các đợt bùng phát này, WHO đã làm việc với các quốc gia thành viên trong việc ứng phó với dịch bệnh và tăng cường các chương trình tiêm chủng thường xuyên để cải thiện và duy trì tỷ lệ tiêm chủng nhằm ngăn ngừa nhiễm trùng và tử vong do bệnh bạch hầu.
Nguồn:
- Dịch từ: sheets>Detail
- Truelove SA, Keegan LT, Moss WJ, Chaisson LH, Macher E, Azman AS,Lessler J(2020), Các khía cạnh lâm sàng và dịch tễ học của bệnh bạch hầu: Tổng quan hệ thống và phân tích gộp, NXB Clin Infect Dis. Tr 71(1):89-97. doi: 10.1093/cid/ciz808.
- 11/08/2024 11:21 - Nang cạnh mấu khớp cột sống thắt lưng
- 09/08/2024 16:01 - Bí tiểu theo Y học cổ truyền
- 08/08/2024 11:08 - Bệnh nhiễm trùng mắc phải tại bệnh viện
- 05/08/2024 20:34 - Đồng vận beta có lợi hay hại trong hen ?
- 31/07/2024 16:00 - Đồng hành cùng mẹ - Gắn kết yêu thương
- 18/07/2024 10:08 - Thiếu máu thị thần kinh do viêm mạch
- 14/07/2024 10:02 - Ô nhiễm không khí và các vấn đề về mắt
- 11/07/2024 10:24 - Chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế thay đổi theo…
- 11/07/2024 10:14 - Nguy cơ dI truyền với đột biến gen BRCA
- 27/06/2024 14:46 - “Kén ăn” có thể gây mất thị lực