Bs Ngô Thị Thảo Vy -
Thế nào là thai đủ tháng?
Trong nhiều năm, một đứa trẻ được xem là sinh đủ tháng nếu được sinh ra trong khoảng 37 tuần 0 ngày đến 41 tuần 6 ngày. Trẻ sinh ra trước 37 tuần 0 ngày là "sơ sinh non tháng" và sau 41 tuần 6 ngày là "sơ sinh già tháng"
Tuy nhiên, thời gian sau, nghiên cứu bắt đầu chỉ ra rằng các vấn đề sức khỏe xảy ra phổ biến hơn ở một số khoảng thời gian nhất định trong thời điểm này. Đặc biệt, trẻ sơ sinh có nhiều nguy cơ tử vong hơn (dù nguy cơ chung vẫn rất thấp) nếu được sinh ra trước 39 tuần hoặc sau 41 tuần. Khả năng trẻ sơ sinh gặp vấn đề về sức khỏe thấp nhất nếu được sinh ra từ 39 tuần 0 ngày đến 40 tuần và 6 ngày (Spong, 2013).
Dựa trên các bằng chứng nghiên cứu, họ chia thành các nhóm riêng biệt (Spong, 2013).
- Thai đủ tháng sớm: 37 tuần 0 ngày đến 38 tuần 6 ngày
- Thai đủ tháng: 39 tuần 0 ngày đến 40 tuần 6 ngày
- Thai quá ngày: 41 tuần đến 41 tuần 6 ngày
- Thai già tháng: 42 tuần 0 ngày trở đi
Chú thích
- Ngày dự sinh (EDD): 40 tuần 0 ngày kể từ kỳ kinh cuối cùng
- Kỳ kinh cuối(LMP): ngày đầu của kỳ kinh cuối
- Chỉ số Apgar: đánh giá nhanh tình trạng sức khỏe của trẻ ngay sau sinh (thường được thực hiện vào 1 phút sau sinh và 5 phút sau sinh)
- Thai lưu: thai chết trong tử cung sau tuần thứ 20
- Tử vong sơ sinh: trẻ chết trong thời điểm < 28 ngày sau sinh, sơ sinh sớm (<7 ngày) và sơ sinh muộn (7-27 ngày)
- Tử vong chu sinh: bao gồm thai lưu và tử vong sơ sinh.
Ngày dự sinh được tính như thế nào?
Hầu hết mọi người bao gồm bác sĩ, nữ hộ sinh và các phần mềm tính toán đều sử dụng quy tắc của Naegele tìm ra ngày ngày sinh dự đoán(EDD). Quy tắc của Naegele giả định rằng bạn có chu kỳ kinh nguyệt 28 ngày và bạn rụng trứng chính xác vào ngày thứ 14 của chu kỳ. Từ đó, EDD được tính: ngày đầu kỳ kinh cuối + 7 ngày và tháng trừ đi 3 , điều này tương đương với việc đếm ngược 280 ngày kể từ ngày đầu kỳ kinh cuối của bạn.
Ví dụ: nếu ngày đầu kỳ kinh cuối cùng của bạn là vào ngày 4 tháng 4, bạn sẽ cộng thêm bảy ngày (11 tháng 4) và tháng trừ đi 3 = ngày dự sinh là 11 tháng 1.
Trong trường hợp biết chính xác ngày thụ thai, như thụ tinh trong ống nghiệm và biết rõ ngày rụng trứng, EDD được tính bằng cách cộng 266 ngày vào ngày thụ thai (hoặc trừ đi 7 ngày và cộng thêm 9 tháng) . Điều này làm tăng độ chính xác của EDD vì nó không còn giả định ngày 14 rụng trứng dựa trên ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng.
Cách để xác định tuổi thai chính xác nhất?
Các bác sĩ bắt đầu sử dụng siêu âm vào những năm 1970 và ngay sau đó, siêu âm đã thay thế kỳ kinh cuối cùng (LMP) như một cách đáng tin cậy nhất để xác định tuổi thai (Morken và cộng sự, 2014).
Trong một nghiên cứu quan sát lớn với hơn 17.000 người mang thai ở Phần Lan, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng siêu âm vào bất kỳ thời điểm nào từ 8 đến 16 tuần chính xác hơn LMP. Khi siêu âm được sử dụng thay vì chỉ số LMP “chắc chắn” (nói cách khác, bà mẹ nhớ chính xác về kỳ kinh cuối cùng của mình), số ca "thai già tháng" giảm từ 10,3% xuống 2,7% (Taipale & Hiilesmaa, 2001).
Tại sao LMP kém chính xác hơn so với sử dụng siêu âm?
Có một số lý do khiến LMP thường kém chính xác hơn siêu âm (Savitz và cộng sự, 2002; Jukic và cộng sự, 2013; ACOG, 2017):
- Có chu kỳ kinh nguyệt không đều hoặc chu kỳ không phải là 28 ngày
- Không nhớ chính xác về ngày đầu kỳ kinh cuối
- Không rụng trứng vào ngày thứ 14 của chu kỳ
- Phôi có thể mất nhiều thời gian hơn để làm tổ trong tử cung đối với một số người
Thời điểm tốt nhất để siêu âm xác định tuổi thai
Nghiên cứu năm 2013, các nhà nghiên cứu đã chia các lần siêu âm theo nhóm <7 tuần, 7-10 tuần, 11-14 tuần, 14-19 tuần và 20-27 tuần (Khambalia và cộng sự, 2013). Các tác giả nhận thấy thời điểm chính xác nhất để thực hiện siêu âm xác định tuổi thai là 11-14 tuần. Khoảng 68% số người đã sinh ± 11 ngày so với ngày dự sinh được tính bằng siêu âm vào tuần thứ 11-14.
Độ chính xác của siêu âm giảm đáng kể bắt đầu từ khoảng tuần thứ 20. Sử dụng ngày ngày sinh dự đoán từ LMP hoặc siêu âm vào 20-27 tuần dẫn đến tỷ lệ sinh non hoặc thai già tháng cao hơn.
Có nên thay đổi ngày dự sinh dựa trên siêu âm 3 tháng cuối thai kỳ không?
Siêu âm trong tam cá nguyệt thứ ba kém chính xác hơn siêu âm trước đó hoặc chỉ số LMP khi dự đoán tuổi thai. Vì họ đo kích thước của thai và so sánh với một thai có kích thước “chuẩn”. Tất cả trẻ sơ sinh đều có cùng kích thước trong thời kỳ đầu mang thai và sau đó sẽ có thay đổi chênh lệch khác nhau giữa các trẻ. Nếu thai lớn hơn mức trung bình, nó sẽ được coi là "đủ tháng" (dù thực sự vẫn chưa đủ tháng) khi siêu âm được thực hiện và ngày dự sinh của bạn sẽ được dời lên (không chính xác). Và ngược lại những em bé sẽ nhỏ hơn mức trung bình khi đủ tháng — ngày dự sinh có thể bị dời sang một ngày sau đó. Do đó, Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ tuyên bố rằng ngày dự sinh chỉ nên được thay đổi trong tam cá nguyệt thứ ba trong một số trường hợp rất hiếm (2017).
Theo ACOG ngày dự sinh chỉ nên được thay đổi sau khi siêu âm thai 3 tháng giữa nếu
- đó là lần siêu âm đầu tiên của người mang thai, và
- ngày dự sinh chênh lệch hơn 21 ngày so với ngày dự sinh tính từ LMP (ACOG, 2017) .
Một thai kỳ bình thường thì kéo dài bao lâu?
Ở Hoa Kỳ và các nước phương Tây khác, khởi phát chuyển dạ thường được thực hiện ở tuần 40 hoặc trước 40 tuần, vì vậy không thể biết chính xác tỷ lệ bà mẹ chuyển dạ tự nhiên và sinh con trước, trong hoặc sau ngày sinh dự đoán. Trước đây, các nhà nghiên cứu đã tìm ra thời gian trung bình của một lần mang thai bình thường bằng cách xem xét một nhóm lớn người mang thai và đo thời gian từ khi rụng trứng (hoặc kỳ kinh cuối cùng hoặc siêu âm) cho đến ngày người đó sinh con và tính trung bình cộng. Tuy nhiên, phương pháp không cho kết quả chính xác.
Nghiên cứu cho thấy rằng ngày dự sinh nên gần 40 tuần 5 ngày
Năm 2013, Jukic et al. đã nghiên cứu thời gian mang thai trung bình của một thai kỳ bình thường. Đây là một nghiên cứu nhỏ hơn, chỉ có 125 phụ nữ khỏe mạnh, tuy nhiên, đây cũng là một nghiên cứu quan trọng, vì các nhà nghiên cứu đã theo dõi những người tham gia ngay cả trước khi thụ thai và đo hormone của họ hàng ngày trong sáu tháng. (Jukic và cộng sự, 2013). Vì vậy, họ biết chính xác những ngày mà những người tham gia rụng trứng, thụ thai.
Sau khi loại trừ những trường hợp sinh non hoặc các bệnh lý liên quan đến thai nghén, mẫu cuối cùng gồm 113 phụ nữ có thời gian trung bình từ khi rụng trứng đến khi sinh là 268 ngày (38 tuần, 2 ngày sau khi rụng trứng). Thời gian trung bình từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng đến khi sinh là 285 ngày (hoặc 40 tuần, 5 ngày sau kỳ kinh cuối cùng).
Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng:
- 10% sinh con sau 38 tuần 5 ngày sau kỳ kinh cuối (LMP)
- 25% sinh con sau 39 tuần 5 ngày sau LMP
- 50% sinh con sau 40 tuần 5 ngày sau LMP
- 75% sinh con sau 41 tuần 2 ngày sau LMP
- 90% sinh con sau 44 tuần 0 ngày sau LMP
Tuy nhiên, một số người tham gia đã không rụng trứng vào ngày thứ 14 của kỳ kinh (đó là lý do tại sao bạn thấy thống kê rằng 10% vẫn chưa sinh con sau 44 tuần sau LMP)
Vì vậy, nếu chúng ta nhìn vào thời điểm sinh con sau khi rụng trứng, sẽ có kết quả này:
- 10% sinh con sau 36 tuần 4 ngày sau khi rụng trứng
- 25% sinh con sau 37 tuần 3 ngày sau khi rụng trứng
- 50% sinh con sau 38 tuần 2 ngày sau khi rụng trứng
- 75% sinh con sau 39 tuần 2 ngày sau khi rụng trứng
- 90% sinh con sau 40 tuần 0 ngày sau khi rụng trứng
Những rủi ro có thể xảy ra ở thai quá ngày
Rủi ro cho bà mẹ:
- Nguy cơ viêm màng ối thấp nhất ở tuần thứ 37 (0,16%) và tăng lên mỗi tuần sau đó, lên mức 6,15% ở tuần thứ 42 (Caughey và cộng sự, 2003)
- Nguy cơ viêm nội mạc tử cung thấp nhất ở 38 tuần (0,64%), tăng lên mỗi tuần sau đó và tăng cao đến 2,2% khi thai ≥ 42 tuần (Caughey & Musci, 2004)
- Nguy cơ nhau bong non thấp nhất ở tuần thứ 37 (0,09%), và tăng lên đến 0,44% ở tuần thứ 42 (Caughey et al., 2003)
- Nguy cơ tiền sản giật thấp nhất ở tuần thứ 37 (0,4%) và cao nhất ở tuần thứ 40 (1,5%), sau đó nguy cơ này không thay đổi (Caughey và cộng sự, 2003)
- Nguy cơ băng huyết sau sinh thấp nhất ở tuần thứ 37 (1,1%) và tăng lên mỗi tuần đến mức 5% ở tuần thứ 42 (Caughey và cộng sự, 2007)
- Nguy cơ sinh mổ (ở những người chưa từng sinh mổ trước đó) tăng từ 14,2% ở tuần thứ 39 lên 25% ở tuần thứ 42 (Caughey & Musci, 2004)
- Nguy cơ phải mổ lấy thai lần đầu tiên do tim thai bất thường là thấp nhất ở tuần 37-39 (13,3-14,5%) và cao nhất là 27,5% ở tuần thứ 42 (Caughey et al., 2007)
- Nguy cơ sinh bằng dụng cụ hỗ trợ (forrcep, giác hút) tăng từ 14,1% ở tuần 38 lên 18,5% khi thai 41 tuần (Caughey & Musci, 2004)
- Nguy cơ bị rách tầng sinh môn độ 3 hoặc độ 4 thấp nhất ở tuần thứ 37 (3,4%) và tăng lên hàng tuần và tăng đến 9,1% ở tuần thứ 42. Tuy nhiên, những con số này cao hơn nhiều so với mức thường thấy, và một phần liên quan đến việc sử dụng forrcep và giác hút ở nhiều trường hợp.
Rủi ro cho trẻ sơ sinh ( Caughey & Musci, 2004)
- Nguy cơ phân su vừa hoặc đặc tăng lên mỗi tuần từ tuần thứ 38 và đạt đỉnh điểm khi thai ≥42 tuần (3% ở 37 tuần, 5% ở 38 tuần, 8% ở 39 tuần, 13% ở 40 tuần, 17% ở 41 tuần và 18% khi> 42 tuần).
- Tỷ lệ nhập viện chăm sóc đặc biệt cho trẻ sơ sinh (NICU) thấp nhất ở tuổi thai 39 tuần (3,9%) và tăng lên 5% khi 40 tuần và 7,2% khi thai ≥42 tuần.
- Nguy cơ thai to (> 4500 gram) tăng bắt đầu từ tuần thứ 38 (0,5%) và tăng gấp đôi mỗi tuần sau đó, cho đến 42 tuần (6%).
- Tỷ lệ có điểm Apgar thấp trong 5 phút tăng lên bắt đầu từ 40 tuần và tăng mỗi tuần cho đến khi thai ≥42 tuần.
Nguy cơ thai lưu
Cho đến những năm 1980, một số nhà nghiên cứu cho rằng nguy cơ thai lưu sau 41-42 tuần tương tự như nguy cơ thai lưu ở những tuần thai trước đó trong thai kỳ. Vì vậy, họ không nghĩ rằng có bất kỳ sự gia tăng rủi ro nào đối với thai quá ngày.
Tuy nhiên, vào năm 1987, Tiến sĩ Yudkin đã xuất bản một bài báo giới thiệu phương pháp mới để tính tỷ lệ thai lưu. Ông cho rằng các nhà nghiên cứu trước đây đã sử dụng sai phép toán khi họ tính toán tỷ lệ thai lưu — sử dụng sai mẫu số! (Yudkin, Wood và cộng sự, 1987).
Đây là lý do tại sao công thức này sai: Không cần biết có bao nhiêu ca thai lưu trong số 1.000 ca sinh ở tuần thứ 41. Thay vào đó, ta cần biết có bao nhiêu trường hợp thai lưu ở tuần thứ 41 so với tất cả các trường hợp mang thai và sinh ở tuần thứ 41. Nói cách khác, phải tính cả những thai khỏe mạnh, còn sống chưa được sinh ra trong mẫu số của bạn.
Khi các nhà nghiên cứu bắt đầu sử dụng công thức mới này để tìm ra tỷ lệ thai lưu, họ đã phát hiện ra một điều rất đáng ngạc nhiên - nguy cơ thai lưu giảm trong suốt thai kỳ, cho đến khi đạt mức thấp nhất ở tuần 37-38 và sau đó nguy cơ bắt đầu tăng trở lại. Hiện tượng này được gọi là “đường cong hình chữ U” của thai lưu.
Nguy cơ thai lưu ở thai kỳ quá ngày
Bảng dưới đây là kết quả của 3 nghiên cứu từ Na Uy, Đức và Hoa Kỳ, trong đó có 2 nghiên cứu sử dụng siêu âm để tính tuổi thai và 1 nghiên cứu sử dụng kỳ kinh cuối.
Yếu tố làm tăng nguy cơ thai lưu
- Trẻ sau sinh có cân nặng nhỏ hơn so với tuổi thai (cân nặng dưới bách phân vị thứ 10- trẻ nhẹ cân) có nguy cơ thai lưu và tử vong sơ sinh cao hơn gấp 6-7 lần so với trẻ sinh đủ tháng không nhẹ cân.
- Ngoài ra, trẻ nhẹ cân thường chậm tăng trưởng phát hiện khi siêu âm ở tuần thai 18. Vì vậy, tuổi thai của những trẻ này thường được ước tính thấp hơn.
Các yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ thai lưu, bao gồm:
- Thuộc nhóm dân tộc có nguy cơ thai lưu cao (Ananth và cộng sự, 2009; Stillbirth Collaborative, 2011)
- Thai lần đầu (Huang và cộng sự, 2000; Smith, 2001b; Stillbirth Collaborative, 2011; Flenady và cộng sự, 2011)
- Ít hơn bốn lần khám tiền sản hoặc không được chăm sóc trước sinh (Huang và cộng sự, 2000; Flenady và cộng sự, 2011)
- Tình trạng kinh tế xã hội thấp (Huang và cộng sự, 2000; Flenady và cộng sự, 2011)
- Chỉ số khối cơ thể (BMI) >25-30 (Huang và cộng sự, 2000; Stillbirth Collaborative, 2011; Flenady và cộng sự, 2011)
- Hút thuốc (Morken và cộng sự, 2014; Flenady và cộng sự, 2011)
- Tiền sử đái tháo đường (Stillbirth Collaborative, 2011; Flenady và cộng sự, 2011)
- Tăng huyết áp mạn tính (Flenady và cộng sự, 2011)
- Tuổi mẹ lớn (≥40 tuổi) (Stillbirth Collaborative, 2011)
- Không sống với bạn đời (Stillbirth Collaborative, 2011)
- Tiền sử thai lưu (Stillbirth Collaborative, 2011)
- Đa thai (Stillbirth Collaborative, 2011)
Mặt khác, vẫn có thể gặp tình trạng thai lưu ngay cả khi không có các yếu tố nguy cơ này. Có tới 1/3 số ca thai lưu trước khi chuyển dạ mà không rõ nguyên nhân (Warland & Mitchell, 2014).
Một số bác sĩ lâm sàng cho rằng “sự già hóa của nhau thai” là nguyên nhân tiềm ẩn của thai lưu mà không rõ nguyên nhân chính thức. Tuy nhiên, cho đến gần đây, không có nghiên cứu nào về chủ đề này.
Năm 2017, các nhà nghiên cứu đã công bố nghiên cứu đầu tiên về các dấu hiệu sinh học của sự già hóa ở nhau thai. Trong nghiên cứu này, ở Úc đã thu thập nhau thai từ 34 người sinh từ tuần 37-39 của thai kỳ, 28 người sinh từ 41-42 tuần và 4 người trải qua thai lưu từ tuần thứ 32 đến 41 (Maiti et al. 2017). Nhiều mẫu mô được lấy từ nhau thai và được phân tích bằng nhiều xét nghiệm sinh hóa khác nhau. Cho thấy có sự gia tăng đáng kể tổn thương DNA / RNA ở nhau thai non tháng và thai lưu so với nhau thai từ 37-39 tuần.
Nhìn chung, phân tích nhau thai từ tuần thai 41-42 và thai lưu cho thấy dấu hiệu già hóa gia tăng, giảm khả năng vận chuyển chất dinh dưỡng đến thai và các chất thải ra khỏi thai, so với nhau thai từ những ca sinh đủ tháng. Tỷ lệ già hóa nhau thai khác nhau ở các thai kỳ khác nhau, và các tác giả cho biết rằng không phải tất cả các nhau thai tuần 41-42 đều có dấu hiệu già hóa. Một phần ba số nhau thai tuần 41-42 có dấu hiệu già hóa gia tăng so với nhau thai 37-39 tuần, có nghĩa là 2/3 số nhau thai tuần 41-42 không có dấu hiệu già hóa.
Kết luận
- Cách tính ngày ngày sinh dự đoán(40 tuần sau kỳ kinh cuối) truyền thống không dựa trên bằng chứng. Thay vào đó, chính xác hơn là cung cấp cho mọi người một khoảng thời gian mà họ có thể sẽ sinh con
- Khoảng một nửa số bà mẹ sinh con lần đầu sau 40 tuần 5 ngày tính từ ngày đầu kỳ kinh cuối, nửa còn lại sinh con sau thời điểm đó.
- Khoảng một nửa số bà mẹ đã sinh con trước đó sẽ sinh con sau 40 tuần 3 ngày tính từ ngày đầu kỳ kinh cuối, nửa còn lại sinh con sau đó
- Ngày ngày sinh dự đoán cũng có thể được tính bằng cách sử dụng ngày rụng trứng (phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm) và sẽ chính xác hơn so với việc sử dụng kỳ kinh cuối vì không còn giả định ngày 14 rụng trứng.
- Siêu âm trước 20 tuần thường chính xác hơn so với sử dụng kỳ kinh cuối và độ chính xác của siêu âm cao nhất nếu được thực hiện trong khoảng thời gian từ 11 đến 14 tuần.
- Chỉ nên thay đổi ngày dự sinh vào cuối thai kỳ trong một số trường hợp hiếm hoi.
- Nhiều bằng chứng cho thấy có sự gia tăng nguy cơ thai lưu vào cuối thai kỳ.
Nguồn: This article was originally published in 2015 and last updated on November 24, 2019 by and Anna Bertone, MPH
- 28/12/2020 15:29 - Hội chứng cai rượu.
- 16/12/2020 21:03 - Vai trò của men chuyển angiotensine 2 (ACE2) trong…
- 15/12/2020 17:38 - Bằng chứng về: Khởi phát chuyển dạ khi thai đến ng…
- 13/12/2020 09:30 - Các đặc điểm riêng của rối loạn đông máu do COVID-…
- 06/12/2020 15:58 - Xẹp phổi trong quá trình gây mê phẫu thuật
- 14/11/2020 17:28 - U nguyên bào nuôi
- 07/11/2020 09:58 - Hội chứng Fitz-Hugh-Curtis: Một chẩn đoán cần xem …
- 11/10/2020 14:58 - Dị tật Dandy-Walker
- 10/10/2020 09:16 - Thông khí nhân tạo trong gây mê ở người lớn – Phần…
- 28/09/2020 20:29 - Xử trí nhiễm trùng huyết ở bệnh nhân xơ gan: Bằng …