Ths Lê Văn Tuấn - Khoa ICU
Trong nỗ lực cân bằng kiểm soát sử dụng kháng sinh với điều trị an toàn, hiệu quả các bệnh nhiễm trùng bệnh viện, các hướng dẫn mới đã đề nghị một liệu trình kháng sinh kéo dài 7 ngày hoặc ít hơn để điều trị viêm phổi ở bệnh viện (HAP) và viêm phổi liên quan đến thở máy (VAP).
Các hướng dẫn mới, do Hiệp hội các bệnh truyền nhiễm Mỹ (IDSA) và Hội Lồng ngực Mỹ, cũng khuyên rằng mỗi bệnh viện cần phát triển các dữ liệu kháng sinh đồ: một phân tích cục bộ của các chủng vi khuẩn gây viêm phổi với trọng tâm là nhiễm trùng trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt, cùng với các loại kháng sinh đã điều trị thành công những bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn đó.
"Khi bác sĩ lâm sàng được cập nhật thường xuyên về vi khuẩn gây ra VAP và HAP trong bệnh viện cũng như sự nhạy cảm với kháng sinh đặc hiệu, họ có thể chọn điều trị hiệu quả nhất", tác giả chính Andre C. Kalil, MD, MPH, từ Đại học Trung tâm Y tế Nebraska ở Omaha, cho biết trong một thông cáo báo chí IDSA. Những kháng sinh đồ giúp "cá nhân hóa chăm sóc, đảm bảo bệnh nhân sẽ được điều trị bằng kháng sinh đúng càng sớm càng tốt", tiến sĩ Kalil nói trong tuyên bố của mình.
Các khuyến cáo mới được ngày 14 tháng 7 trên tạp chí Các bệnh truyền nhiễm lâm sàng, và thay thế các khuyến cáo trước đó được xuất bản vào năm 2005.
Nỗ lực đa ngành
Tiến sĩ Kalil dẫn đầu một nhóm nghiên cứu đa ngành xây dựng các hướng dẫn trong nỗ lực hạn chế sự phát triển kháng thuốc kháng sinh mà không ảnh hưởng đến an toàn bệnh nhân, dựa trên bằng chứng hệ thống và phân tích dữ liệu gần đây.
HAP cùng với VAP chiếm 20% đến 25% trường hợp nhiễm khuẩn bệnh viện, và khoảng 10% đến 15% các trường hợp tử vong. Khi tách riêng biệt, Tiến sĩ Kalil và các đồng nghiệp nhận thấy rằng khoảng 1 trong 10 bệnh nhân thở máy tiến triển VAP, và 13% các trường hợp nhiễm trùng bị tử vong.
Nghiên cứu không cho thấy liệu trình kháng sinh kéo dài có bất kỳ ích lợi nào hơn liệu trình ngắn ngày. Các liệu trình dài ngày, đi kèm với các tác dụng bất lợi như tiêu chảy, một nguy cơ lớn đối với Clostridium difficile, tăng chi phí y tế, và tăng nguy cơ kháng kháng sinh.
Do đó, các tác giả đề nghị một liệu trình 7 ngày điều trị kháng sinh cho VAP và HAP, nhưng họ thừa nhận rằng "Có những tình huống mà liệu pháp kháng sinh ngắn ngày hay dài ngày được chỉ định cụ thể, tùy thuộc vào tốc độ cải thiện lâm sàng, X quang, và các thông số xét nghiệm". Họ cũng khuyên nên bỏ leo thang điều trị kháng sinh; nên sử dụng thuốc kháng sinh phổ hẹp thay vì những phổ rộng, và bắt đầu với đơn trị liệu thay vì điều trị phối hợp.
Các tổ chức này cũng "đề nghị sử dụng nồng độ procalcitonin cộng với tiêu chuẩn lâm sàng để hướng dẫn việc ngưng điều trị kháng sinh, chứ không phải là một mình tiêu chuẩn lâm sàng" ở những bệnh nhân với HAP hay VAP, mặc dù các tác giả lưu ý rằng đề xuất được dựa trên bằng chứng có chất lượng tương đối thấp.
Các kiến nghị khác tập trung vào việc sử dụng các phương pháp không xâm lấn để chẩn đoán VAP, dựa hoàn toàn vào các tiêu chuẩn lâm sàng để xác định xem có nên bắt đầu điều trị kháng sinh, và các tùy chọn điều trị theo kinh nghiệm cho các trường hợp lâm sàng cụ thể. Tuy nhiên hầu hết các đề xuất này cũng dựa vào chứng cứ chất lượng thấp.
Trong việc phát triển kháng sinh đồ, các tác giả đề nghị mỗi tổ chức cũng xác định mức độ thường xuyên cần được cập nhật. "Yếu tố xem xét bao gồm tốc độ biến đổi của vi khuẩn, nguồn lực, và số lượng dữ liệu có sẵn để phân tích," các tác giả viết.
Các hướng dẫn bao gồm các khuyến cáo cụ thể cho điều trị kháng sinh theo kinh nghiệm ban đầu dựa trên việc lây nhiễm là VAP hoặc HAP; nguy cơ đối với Staphylococcus aureus đề kháng methicillin; nguy cơ tử vong, và sự hiện diện của vi khuẩn gram dương hay Gram âm; trong cân nhắc lâm sàng khác.
"Ở những bệnh nhân nghi ngờ VAP, chúng tôi khuyên bạn nên điều trị bao gồm cả cho S. aureus, Pseudomonas aeruginosa, và trực khuẩn gram âm khác theo kinh nghiệm", các tác giả viết. "Đối với những bệnh nhân được điều trị theo kinh nghiệm cho HAP, chúng tôi khuyên bạn nên kê toa thuốc kháng sinh có hoạt tính chống S. aureus ."
Clinical Infectious Diseases: Công bố trực tuyến ngày 14 tháng 7 năm 2016.
- 10/08/2016 16:11 - Khuyến cáo của FIGO trong thực hành lâm sàng liên …
- 08/08/2016 09:38 - Vai trò của hạch gác trong phẫu thuật ung thư vú
- 31/07/2016 14:36 - Những tiến bộ trong chẩn đoán, điều trị loãng xươn…
- 30/07/2016 13:12 - Thông khí cơ học hỗ trợ: tương lai là bây giờ
- 30/07/2016 09:38 - Tình trạng thiếu sắt trong thai kỳ liên kết với bệ…
- 08/07/2016 06:35 - Gan nhiễm mỡ cấp trong thai kỳ
- 11/06/2016 09:27 - Xử lý rối loạn nhịp tim trong nhồi máu cơ tim cấp …
- 05/06/2016 14:25 - Tăng huyết áp trên bệnh nhân đái tháo đường
- 30/05/2016 07:36 - Xử lý rối loạn nhịp tim trong nhồi máu cơ tim cấp …
- 24/05/2016 18:43 - Cập nhật chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư gan ng…