Cổng game nổ hủ phổ biến nhất - Top 10 bảng xếp hạng game nổ hủ

Ứng dụng Telemedicine tại Việt Nam

Dự án Telemedicine sẽ được triển khai tại các Bệnh Viện Vệ Tinh nhằm phục vụ cho "Đề án bệnh viện vệ tinh năm 2013-2020" của Bộ Y tế. Xin giới thiệu với các bạn vài nét về ứng dụng giải pháp kỹ thuật này.

Telemedicine lần đầu tiên được triển khai ở Việt Nam vào khoảng thập niên 90. Vào tháng 12/1998, TS. Michael Ricci (Burlington, VT, Washington, D.C. Hoa Kỳ) đã thực hiện việc khám 1 bệnh nhân ở Việt Nam (Hà Nội) thông qua hệ thống ISDN. Chương trình này nằm trong dự án đầu tiên triển khai telemedicine, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Đây cũng là lần đầu tiên các bác sĩ và sinh viên của Việt Nam (03 bệnh viện Trung ương ở Hà Nội và Trường Đại học Y Hà Nội) được biết đến nền y học tiên tiến thông qua việc trao đổi với các bác sĩ ở Hoa Kỳ và hội chẩn ca bệnh bằng sử dụng đường truyền ISDN có kết hợp của hệ thống truyền hình trực tuyến (Video conferencing) ở Việt Nam.

telemedicine1

Hệ thống các tuyến cơ sở trong giai đoạn thí điểm

Từ năm 2000, Bộ quốc phòng đã có triển khai thử nghiệm Dự án "Y Học Từ Xa", các thành viên tham gia dự án là Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (Hà Nội) và Quân y viện 175 (Thành phố Hồ Chí Minh). Tại mỗi bệnh viện thiết lập một mạng LAN kết nối 2 máy chẩn đoán hình ảnh chủ yếu là CT scanner và siêu âm.

Năm 2004, một hội thảo quốc tế về khám và điều trị từ xa được tổ chức tại Công viên phần mềm Quang Trung. Bộ trưởng Bộ Y tế Trần Thị Trung Chiến đã tới dự và chỉ đạo

Ngày 5/5/2005, qua cầu truyền hình trực tiếp, Bệnh viện Việt Tiệp (Hải Phòng) đã trực tiếp thực hiện thành công một ca phẫu thuật dưới sự tư vấn chuyên môn của các chuyên gia ở Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội).

Ngày 27/2/2006, các chuyên gia của Viện tim mạch Việt Nam đã thực hiện cầu truyền hình trực tuyến với Singapore trong cuộc phẫu thuật can thiệp tim mạch.

Từ năm 2003 đến năm 2007: Triển khai Dự án bệnh viện vệ tinh cho Bệnh viện Việt Đức gồm 6 bệnh viện là Việt Tiệp (Hải Phòng), Sơn Tây, Nam Định, Bắc Ninh, Phú Thọ, Thanh Hóa nhằm cấp cứu người bệnh kịp thời, giảm bớt tình trạng quá tải của Bệnh viện Việt Đức.

Nhiều đơn vị, công ty của Việt Nam đang xây dựng và đưa vào ứng dụng  các sản phẩm phần mềm trong lĩnh vực chăm sóc y tế như: Hệ thống thông tin và lưu trữ hình ảnh PACS, Hệ thống Bệnh án điện tử EMR; Hệ thống thông tin bệnh viện – HIS; Hệ thống thông tin Xquang - RIS, Hệ thống thông tin dược phẩm - PhIS, v.v...

Việc triển khai ứng dụng telemedicine tại Việt Nam mới chỉ là những bước đi ban đầu, kết quả đạt được tuy đã chứng tỏ được lợi ích nhưng cũng bộc lộ những thách thức trong việc triển khai telemedicine.Chặng đường trước mắt còn nhiều khó khăn và nhiều việc phải làm.

Kế hoạch giai đoạn 2011-2015

Tháng 5 năm 2012, Bộ Y tế tổ chức Hội nghị quốc gia về ứng dụng CNTT ngành Y tế lần thứ 6. Tại Hội nghị đã có tổng kết về hiện trạng CNTT Y tế và dự kiến kế hoạch phát triển cho giai đoạn 2011-2015.

Hiện trạng 2011

Các cơ sở trực thuộc Bộ Y tế, các bệnh viện đã hình thành hệ thống tổ chức chuyên trách công nghệ thông tin. Các bệnh viện hạng 1 và hạng đặc biệt đã thành lập phòng công nghệ thông tin (90%), các đơn vị khác đã có bộ phận, cán bộ chuyên trách công nghệ thông tin đảm bảo thành công cho triển khai ứng dụng CNTT tại đơn vị.

Về Cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin:

-  Ngành y tế chưa xây dựng được mạng WAN kết nối đến các cơ sở y tế.

-  Tại các cơ quan Bộ Y tế: Đã có trung tâm tích hợp dữ liệu; 100% đơn vị kết nối mạng LAN và Internet tốc độ cao; 100% cán bộ, công chức được trang bị và sử dụng thành thạo máy tính trong công việc; 20% cán bộ, công chức được cấp địa chỉ ail.moh.gov.vn và sẽ tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống để cấp tiếp thời gian tới.

-  Các đơn vị trực thuộc Bộ: 100% đơn vị có mạng LAN và kết nối Internet tốc độ cao; 74% cán bộ y tế sử dụng máy tính thông thạo trong công việc, 58% có hệ thống Email riêng và 43% có hệ thống bảo mật, 53% có hệ thống backup dữ liệu

-  Sở Y tế: 100% có mạng LAN và kết nối Internet tốc độ cao, 16% có hệ thống Email riêng, 26% có hệ thống bảo mật và 24% có hệ thống lưu trữ dữ liệu.

Về Y tế từ xa

Tình hình triển khai ứng dụng công nghệ thông tin đối với y tế từ xa hiện còn hạn chế do chưa có văn bản hướng dẫn cho hoạt động này. Tuy nhiên song song việc ban hành hướng dẫn hoạt động y tế trên môi trường mạng, các nhiệm vụ/dự án y tế từ xa cũng đang thí điểm triển khai và đạt được những kết quả ban đầu, cụ thể như:

-  Dự án quy mô quốc gia về xây dựng dịch vụ tư vấn y tế, khám chữa bệnh từ xa nằm trong chương trình 1605 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đang được Bộ Y tế giao Vụ Khoa học và Đào tạo, Cục quản lý khám, chữa bệnh triển khai xây dựng

-  Ở một số bệnh viện tuyến trung ương đã hình thành bệnh viện vệ tinh có hệ thống y tế từ xa như Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Việt Đức, Bệnh viện Bạch Mai phục vụ cho tư vấn y tế giữa bệnh viện tuyến trên với bệnh viện tuyến dưới góp phần giảm tải bệnh viện

-  Đang triển khai dự án về cung cấp thông tin y tế trên cổng thông tin cho nhân dân tỉnh Hòa bình bằng nguồn vốn ODA của Nhật Bản từ dự án do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì

-  Dịch vụ tư vấn qua điện thoại: Hệ thống tái khám của BV Bạch Mai, hệ thống mHealth thí điểm của Viện Công nghệ thông tin – Thư viện Y học TƯ.

Dự định cho tương lai (kế hoạch đến 2015)

Về Hạ tầng kỹ thuât:

-  Đảm bảo cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm phần cứng, phần mềm cho việc trao đổi thông tin thông suốt, an toàn, bảo mật trong cơ quan Bộ Y tế, các đơn vị tuyến trung ương, Sở y tế và giữa các đơn vị với nhau, đáp ứng yêu cầu cơ bản phục vụ nhân dân.

-  Đảm bảo đủ trang thiết bị CNTT-truyền thông phục vụ yêu cầu cơ bản ở tất cả các đơn vị y tế từ tuyến huyện trở lên.

-  Đến năm 2012, có 90% dịch vụ hành chính công trên cổng thông tin điện tử Bộ Y tế và 60% trên website Sở y tế được thực hiện trực tuyến mức độ 3 trở lên, số còn lại ở mức độ 2.

-  100% đơn vị trực thuộc sở và Sở y tế có website và hệ thống email phục vụ cung cấp và trao đổi thông tin thông suốt.

-  Đảm bảo có đơn vị, bộ phận chuyên trách CNTT-TT tại các cơ sở y tế từ tuyến huyện trở lên, có đủ nguồn nhân lực CNTT – TT tại các bệnh viện

-  Triển khai Đề án kiện toàn hệ thống tổ chức công nghệ thông tin ngành y tế giai đoạn năm 2010 đến năm 2015 theo Quyết định 1191/QĐ-BYT ngày 14/4/2010.

Tạo tiền đề để phát triển Y tế từ xa (Telemedicine)

-  Xây dựng cơ sở dữ liệu y tế quốc gia: Phục vụ cho việc quản lý điều hành của Bộ Y tế với các đơn vị trực thuộc và các Sở y tế. Trên cơ sở tích hợp các CSDL thành phần đảm bảo thông tin thông suốt gữa các tuyến khám chữa bệnh, y tế dự phòng, môi trường, đào tạo và vật tư trang thiết bị y tế nhằm tăng cường tính bền vững đồng thời là cơ sở tốt cho khám chữa bệnh, nghiên cứu khoa học, đào tạo;

-  Xây dựng chuẩn trao đổi thông tin điện tử y tế, chuẩn quy trình hoạt động y tế có ứng dụng CNTT và các chuẩn về CNTT sử dụng trong ngành y tế;

-  Xây dựng dịch vụ tư vấn y tế, khám chữa bệnh từ xa;

-  Xây dựng bệnh án điện tử và hệ thống quản lý khám chữa bệnh;

-  Xây dựng các tiêu chuẩn thông tin y tế phục vụ cho việc trao đổi và chia sẻ thông tin trong y tế trong nước và hướng tới chia sẻ và trao đổi dữ liệu với các bệnh viện trên thế giới trong tương lai;

-  Kết nối mạng WAN ngành Y tế - một trong những nhiệm vụ trọng tâm đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt, tính ổn định, bảo mật và bền vững cao trong ngành đặc thù liên quan đến tính mạng con người;

-  Xây dựng và nâng cấp mạng LAN tại các bệnh viện và các cơ sở y tế khác nhằm chuẩn bị cho việc chia sẻ trao đổi thông tin nội bộ…

Nguồn: Thế Lai, //www.telemedicinevietnam.com.vn


Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ hai, 01 Tháng 4 2013 09:18