Cổng game nổ hủ phổ biến nhất - Top 10 bảng xếp hạng game nổ hủ

Kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy

Bs. LÊ NGÔ ÁI THẢO - Khoa Hoá sinh

(Squamous cell carcinoma antigen: SCCA)

Tổng quan

Tế bào vảy là thành phần chính của biểu bì nhưng nó cũng hiện diện trong lớp nền của đường tiêu hóa, phổi và các vùng khác của cơ thể.

scca

Hình 1: Tế bào vảy ở da

Ung thư biểu mô tế bào vảy (Squamous cell carcinoma: SCC) là một khối u ác tính của mô tế bào vảy. SCC xảy ra như là một dạng của ung thư trong nhiều loại mô, chủ yếu là phổi, cổ tử cung, âm đạo cũng như môi, miệng và thực quản.

Ung thư phổi tế bào vảy (Squamous cell lung cancer: SQLC) là một dạng ung thư phổi không tế bào nhỏ (Non-small cell lung cancer: NSCLC). NSCLC chiếm khoảng 80% ung thư phổi, và trong số đó, khoảng 30% là SQLC. SQLC liên quan nhiều nhất đến việc hút thuốc lá, với một nghiên cứu cho thấy 91% SQLC được quy cho việc hút thuốc lá.[1]

Khoảng 80% đến 90% ung thư cổ tử cung là ung thư tế bào vảy.

Ung thư đầu và cổ dùng để chỉ một nhóm các bệnh ung thư tương tự về mặt sinh học có thể xảy ra như trên môi, khoang miệng và mũi, họng và thanh quản. 90% ung thư đầu & cổ là SCC, có nguồn gốc từ màng niêm mạc (biểu mô) của những khu vực này.

Mặc dù có cùng tên, ung thư biểu mô tế bào vảy, nhưng các SCC ở những vị trí khác nhau có sự khác biệt rất lớn về triệu chứng biểu hiện, tiên lượng và đáp ứng điều trị.

scca2

Hình 2: Tế bào vảy ở cổ tử cung

Kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy

Kháng nguyên ung thư biểu mô tế bào vảy (Squamous cell carcinoma antigen: SCCA) là một tiểu phần của TA-4, một kháng nguyên khối u được mô tả lần đầu tiên bởi Kato và Torigoe vào năm 1977. TA-4, lấy từ mô ung thư biểu mô tế bào vảy cổ tử cung, được mô tả là một glycoprotein có trọng lượng phân tử 48 kDa và bao gồm ít nhất 14 tiểu phần. SCCA là một trong những tiểu phần này, là một glycoprotein có trọng lượng phân tử 42 kDa có thể được phát hiện bằng hóa mô miễn dịch trong mô tế bào vảy của phổi, âm hộ, phần ngoài cổ tử cung, thực quản và da. Các gen tương ứng cho SCCA mã hóa cho hai kháng nguyên, SCCA1 trung tính và SCCA2 acid, có thể phát hiện được trong huyết thanh. Chức năng sinh học của SCCA là chất ức chế enzyme, trong đó SCCA1 là một chất ức chế cysteine protease giống papain (cathepsin L, S và K) và SCCA2 ức chế serine protease giống chymotrypsin, cathepsin G và chymase. [2]

Các nghiên cứu về SCCA1 và SCCA 2 chứng minh cho độ nhạy lâm sàng tối ưu, một xét nghiệm nhận diện tất cả các dạng huyết thanh học được ưu tiên hơn. SCCA1 và SCCA2 cùng biểu hiện trong biểu mô vảy của lưỡi aimidan thực quản, cổ tử cung và âm đạo. Trong SCC phổi, đầu & cổ, SCCA1 và SCCA2 cùng biểu hiện trong các khối u biệt hóa trung bình và biệt hóa tốt. Xét nghiệm Elecsys SCC đo tổng lượng SCCA (SCCA1 và SCCA2) trong huyết thanh và huyết tương người.

SCCA được biểu hiện ở biểu mô tế bào vảy bình thường và trong ung thư biểu mô tế bào vảy (SCC). Bình thường, nồng độ SCC trong huyết thanh <1,5 ng/mL. Nồng độ SCCA trong huyết thanh tăng ở cả bệnh nhân mắc các bệnh lành tính và bệnh nhân mắc SCC.

SCCA được nghiên cứu trong các u ác tính tế bào vảy bao gồm phổi, cổ tử cung, thực quản, đầu và cổ, ống hậu môn và da. Các giai đoạn ung thư tiến triển liên quan đến nồng độ SCCA cao, đặc biệt là trong ung thư phổi và ung thư cổ tử cung, và việc đo SCCA trong các lần liên tiếp, hỗ trợ đánh giá đáp ứng điều trị và tái phát sau điều trị.

SCCA được báo cáo là một dấu ấn sinh học cho NSCLC , chủ yếu là dạng SQLC. SCCA đã được tìm thấy với tăng cao ở bệnh nhân SQLC. Nó cũng tăng trong số những bệnh nhân bị ung thư phổi không tế bào vảy (Nonsquamous cell lung cancer: NSQLC) và trong các đối tượng mắc bệnh phổi lành tính (Nonmalignant pulmonary disease: NMPD). Theo nghiên cứu tại Nhật trên 639 bệnh nhân, mức tăng (> 1,5 ng/ml) của SCCA được quan sát thấy ở 52,7% bệnh nhân SQLC, nhưng chỉ có ở 14,2% bệnh nhân NSQLC. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ dương tính giữa bệnh nhân SQLC và NSQLC. Không có bệnh nhân NSQLC nào có nồng độ SCC huyết thanh lớn hơn 40,0 ng/ml. Trong số các đối tượng NMPD, 28,4% có mức độ SCCA tăng. Tuy nhiên, không có bệnh nhân NMPD nào có nồng độ SCCA huyết thanh lớn hơn 20,0 ng/ml. [4]

Mô học thông dụng nhất trong ung thư cổ tử cung là SCC với SCCA là dấu ấn sinh học được lựa chọn cho mô học này. Nồng độ huyết thanh của SCCA được tìm thấy liên quan đến giai đoạn của khối u, kích thước khối u, tồn lưu khối u sau khi điều trị, bệnh tái phát hoặc tiến triển, và tiên lượng sống của bệnh nhân với ung thư tế bào vảy cổ tử cung. SCCA được ghi nhận là dấu ấn được lựa chọn để theo dõi ung thư cổ tử cung theo Hướng dẫn Nhóm các dấu ấn khối u của Châu Âu. Đặc biệt giá trị trong dự đoán tiên lượng, theo dõi và xác định trước khi điều trị ở bệnh nhân có nguy cơ cao với di căn hạch bạch huyết trong ung thư tế bào vảy cổ tử cung. Một nghiên cứu cũng chứng minh rằng việc đo SCCA kết hợp với hsCRP cho kết quả tỷ lệ phát hiện cao nhất sự tái phát bệnh trong quá trình theo dõi ung thư cổ tử cung.[5] Theo nghiên cứu của Geyer H., Schwörer D., Pfleiderer A., trong số 122 bệnh nhân SCCA không được điều trị của cổ tử cung, 76% có nồng độ SCCA trên 1,5 ng/ml. Trong giai đoạn III và IV, 89% trường hợp có giá trị SCCA tăng. Trong số 50 bệnh nhân ung thư cổ tử cung tái phát hoặc tiến triển, mức độ SCCA tăng cao được tìm thấy ở 78%. Có tới 70% bệnh nhân ung thư biểu mô âm đạo hoặc âm hộ có nồng độ SCCA tăng cao. SCCA đã chứng minh là một dấu ấn khối u có giá trị để theo dõi ung thư cổ tử cung, âm đạo và âm hộ.[3]

Phân tích đa biến cho thấy SCCA là một yếu tố dự đoán độc lập sự khỏi bệnh và nồng độ trước điều trị là một chỉ số tiên lượng độc lập ở bệnh nhân có khối u ác tính ở đầu và cổ. [2]

SCCA có thể được tìm thấy trong biểu mô tế bào vảy bình thường, nó có trong huyết thanh ở nồng độ thấp. SCCA không phải là một protein đặc hiệu cho khối u. Do đó, nồng độ SCCA cao có thể liên quan đến SCC cũng như những rối loạn lành tính. Trong các nghiên cứu trên bệnh nhân có những rối loạn lành tính, nồng độ SCCA bất thường được tìm thấy ở bệnh nhân có bệnh thận mãn tính, bệnh nhân chạy thận nhân tạo và những bệnh nhân có rối loạn về da như bệnh vảy nến và chàm. Suy thận và các rối loạn về da là những nguyên nhân quan trọng nhất gây kết quả dương tính giả với dấu ấn sinh học này.[2]

Kết luận

SCCA là một dấu ấn ung thư cho các SCC ở cổ tử cung, phổi, vùng đầu cổ, thực quản và hậu môn; sự tăng lên của SCCA trong máu tương quan với giai đoạn bệnh, biểu hiện lâm sàng và sự tái phát của khối u. SCCA không thật hữu ích cho mục đích sàng lọc hoặc chẩn đoán SCC nhưng nó có giá trị trong theo dõi tiến triển, đánh giá hiệu quả điều trị và phát hiện sự tái phát của khối u.

Tài liệu tham khảo

  1. Benjamin A. Derman, Kathryn F. Mileham, Philip D. Bonomi, Marta Batus, and Mary J. Fidler, (2015), “Treatment of advanced squamous cell carcinoma of the lung: a review”, Transl Lung Cancer Res, 4(5): 524–532.
  2. Danh mục hóa chất – Elecsys SCC của Roche Diagnosis.
  3. Geyer H., Schwörer D., Pfleiderer A., (1989) “SCC (squamous cell carcinoma) antigen as a tumor marker in cervix cancers”, Geburtshilfe Frauenheilkd, 49(3):266-71: Tóm tắt.
  4. Kagohashi K, Satoh H, Kurishima K, Kadono K, Ishikawa H, Ohtsuka M, Sekizawa K., (2008), “Squamous cell carcinoma antigen in lung cancer and nonmalignant respiratory diseases”, Lung, 186(5):323-6: Tóm tắt.
  5. Hoogendam JP, Zaal A, Rutten EG, Heijnen CJ, Kenter GG, Veldhuis WB, Verheijen RH, Zweemer RP., (2013), “Detection of cervical cancer recurrence during follow-up: a multivariable comparison of 9 frequently investigated serum biomarkers”, Gynecologic Oncology, 131:655-660.

Tin mới hơn:
Tin cũ hơn:

Lần cập nhật cuối lúc Thứ năm, 12 Tháng 9 2019 19:02